Dân tộc Việt hoặc người Kinh là một dân tộc được chủ yếu chiếm khoảng 86,2% dân số của Việt Nam và được gọi chính thức là dân tộc Kinh, nhằm phân biệt với các dân tộc thiểu số khác tại Việt Nam.
Ngôn ngữ chính của người Việt là tiếng Việt, một ngôn ngữ thuộc nhánh Nam Á của ngữ hệ Việt. Người Việt sinh sống trên khắp lãnh thổ Việt Nam và một số quốc gia khác. Cộng đồng người Việt hải ngoại lớn nhất định cư chủ yếu tại Hoa Kỳ.
Mục lục
- Giới thiệu dân tộc Việt (Kinh)
- Dân số và địa bàn cư trú dân tộc Việt (Kinh)
- Ngôn ngữ dân tộc Việt (Kinh)
- Đặc điểm kinh tế dân tộc Việt (Kinh)
- Đặc điểm văn hóa, phong tục dân tộc Việt (Kinh)
- 1. Ẩm thực
- 2. Phong tục hôn nhân, cưới hỏi
- 3. Phong tục tang ma
- 4. Lễ Tết
- 5. Tôn giáo, tín ngưỡng
- Trang phục truyền thống dân tộc Việt (Kinh)
- 1. Trang phục nam
- 2. Trang phục nữ
- Nhà cửa dân tộc Việt (Kinh)
Giới thiệu dân tộc Việt (Kinh)
Người Kinh, cùng với người Mường, Thổ, Chứt, là các dân tộc bản địa đã sinh sống từ rất lâu trên lãnh thổ của Việt Nam, không có nguồn gốc từ bên ngoài. Ban đầu, khu vực tập trung chủ yếu ở vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, nhưng người Kinh đã di cư và hiện diện trên mọi địa bàn và địa hình của đất nước.
Trong quá trình phát triển lịch sử Việt Nam, người Kinh luôn đóng vai trò trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tổ tiên của người Việt đã định cư ổn định ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ từ thời xa xưa. Trong suốt quá trình phát triển lịch sử Việt Nam, người Việt luôn đóng vai trò trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Dân số và địa bàn cư trú dân tộc Việt (Kinh)
Theo số liệu thống kê từ Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2019, dân tộc Kinh hiện đang có tổng số 82.085.826 người (nam: 40.804.641 người, nữ: 41.281.185 người), chiếm 86,83% tổng dân số của Việt Nam. Số lượng dân số sống ở thành thị là 31.168.839 người, trong khi số người sống ở nông thôn là 50.916.987 người.
Trong khoảng thời gian 10 năm từ năm 2009 đến năm 2019, dân số của dân tộc Kinh đã tăng thêm gần 8,5 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số trung bình trong giai đoạn này cho dân tộc Kinh là 1,09%, thấp hơn tỷ lệ tăng trung bình của các dân tộc thiểu số (1,42%) và tỷ lệ tăng trung bình của toàn quốc (1,14%).
Dân tộc Kinh có mặt tại tất cả các tỉnh và thành phố trên khắp Việt Nam. Số người dân tộc Kinh cư trú tại các vùng
- Trung du và miền núi phía bắc là 5.495.484 người (chiếm 6,7%);
- Đồng bằng sông Hồng: 22.074.819 người (26,9%);
- Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: 18.111.079 người (22,1%);
- Tây Nguyên: 3.642.726 người (4,4%);
- Đông Nam Bộ: 16.798.500 người (20,4%);
- ồng bằng sông Cửu Long: 15.963.218 người (19,5%).
Dân tộc Kinh là dân tộc duy nhất trong số 54 dân tộc ở Việt Nam và họ sinh sống trong các cộng đồng trên toàn quốc, trên mọi loại địa hình và vùng đất (bao gồm đồng bằng, vùng Trung du, miền núi, cao nguyên, ven biển và hải đảo), tuy nhiên, họ tập trung đông đúc nhất ở đồng bằng. Điều này là một quy luật chung, “trong mỗi quốc gia ở Đông Nam Á, dân tộc chủ thể luôn chiếm ưu thế ở đồng bằng”.
Người Việt cũng tập trung sinh sống dọc các tuyến đường giao thông chính, và họ chiếm đa số dân số trong tất cả các thành phố và đô thị trên cả nước.
Với đặc điểm về dân số và cách cư trú như vậy, người Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của quốc gia và dân tộc Việt Nam từ những ngày đầu thành lập quốc gia, qua các giai đoạn lịch sử cổ đại, trung đại, cận đại và hiện đại đến ngày nay.
Ngôn ngữ dân tộc Việt (Kinh)
Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, một nhánh của ngữ hệ Nam Á.
Chữ quốc ngữ: Được tạo ra bằng cách sử dụng chữ cái Latinh (trực tiếp được mượn từ chữ cái Bồ Đào Nha), kết hợp với 9 dấu phụ (bao gồm 4 dấu để tạo ra các âm mới và 5 dấu để biểu thị thanh điệu của từ) để ghi âm địa danh và tên người Việt.
Cùng với tiếng Việt, chữ quốc ngữ đã trở thành ngôn ngữ chính thức của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Đặc điểm kinh tế dân tộc Việt (Kinh)
Đại đa số dân cư sống dựa vào nền nông nghiệp, với trọng điểm chính là trồng lúa nước. Ngoài ra, còn kết hợp chăn nuôi, các nghề thủ công và hoạt động buôn bán trao đổi. Nông nghiệp lúa nước đã được phát triển từ rất sớm và trở thành một phần quan trọng trong đời sống người Việt.
Chăn nuôi lợn, gia súc, gia cầm và thả cá cũng được phát triển mạnh mẽ. Người Việt nổi tiếng với khả năng thủ công nghiệp, phát triển đa ngành – nghề mà mỗi nghề đều đạt đến mức độ tài hoa và khéo léo cao.
Nhiều làng thủ công đã tách ra khỏi nông nghiệp. Chợ làng, chợ phiên và chợ huyện luôn sôi động và nhộn nhịp. Hiện nay, trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, các đô thị và khu công nghiệp đang ngày càng phát triển, cùng với đời sống người dân ngày càng khá giảu.
Đặc điểm văn hóa, phong tục dân tộc Việt (Kinh)
1. Ẩm thực
Cơm tẻ, nước chè” là khẩu phần ăn và đồ uống cơ bản hàng ngày của người Việt. Các món nếp chỉ xuất hiện trong những dịp lễ tết. Trong bữa ăn hàng ngày, thường có món canh rau hoặc canh cua, cá… Đặc biệt, người Việt rất ưa thích các loại mắm (mắm tôm, cá, tép, cáy…) và các loại dưa (cải, hành, cà, kiệu).
Mâm cỗ ngày Tết truyền thống của người Kinh không thể thiếu những món ăn quen thuộc như bánh tét, bánh chưng, dưa hành, củ kiệu, thịt đông, nem, giò, xôi, gà luộc hay canh măng… Rượu thường được sử dụng trong các dịp lễ tết, các buổi liên hoan… Trước đây, ăn trầu và hút thuốc lào không chỉ là nhu cầu và thói quen cá nhân, mà còn là một phần trong lễ nghi và phong tục truyền thống.
2. Phong tục hôn nhân, cưới hỏi
Người Việt trân trọng tình yêu trong trắng và lòng trung thành. Dưới thời phong kiến, việc kết hôn thường theo nguyên tắc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, tuy nhiên, ngày nay nam nữ tự tìm hiểu và quyết định. Truyền thống nghi lễ cưới của người Việt bao gồm 4 bước cơ bản: Dạm, hỏi, cưới và lại mặt.
3. Phong tục tang ma
Việc tổ chức tang ma trong văn hóa người Việt là một nghi lễ trang nghiêm, chu đáo và được thực hiện qua các bước cơ bản như sau: liệm, nhập quan, đưa đám, hạ huyệt, cúng cơm, cúng tuần “tứ cửu”, cúng “bách mật”, để tang, giỗ đầu, cải táng… Mỗi khi đến ngày Thanh Minh hoặc kỳ giỗ tết, các gia đình thường đi đắp lại mộ và tổ chức lễ cúng. Cải táng được coi là một phong tục rất thiêng liêng và có ý nghĩa sâu sắc trong tín ngưỡng người Việt.
4. Lễ Tết
Tết Nguyên đán (Tết Âm lịch) là lễ tết lớn nhất trong năm. Sau Tết Âm lịch là các hội mùa xuân. Ngoài ra, còn có nhiều lễ tết truyền thống khác như Rằm Tháng giêng, Tết Thanh minh, lễ Hạ điền, lễ Thượng điều, Tết Đoan Ngọ, Rằm Tháng bảy, Tết Trung thu, lễ cơm mới… Mỗi lễ tết đều mang ý nghĩa riêng và có những lễ thức tiến hành đặc biệt.
5. Tôn giáo, tín ngưỡng
hờ cúng tổ tiên vẫn là tín ngưỡng quan trọng nhất trong văn hóa người Việt. Ngoài ra, cũng có các tập quán tôn giáo khác phổ biến trong cộng đồng. Tục thờ thổ công, táo quân, ông địa được thực hiện ở nhiều địa phương, trong khi nhiều gia đình tôn giáo theo đạo Thiên Chúa, Tin Lành và các tôn giáo khác như Cao Đài, Hòa Hảo. Ngoài ra, cũng có sự phát triển của các nguyên lý tôn giáo khác như Phật giáo với sự hiện diện của các chùa và tu viện trong nhiều khu vực. Tôn giáo và tín ngưỡng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống tinh thần và tạo nên đa dạng văn hóa tôn giáo của người Việt.
Trang phục truyền thống dân tộc Việt (Kinh)
Trang phục truyền thống của người Việt có đa dạng chủng loại, bao gồm áo, váy, quần, khố (trước đây), mũ nón, giày dép và trang sức. Phong cách mỹ thuật của trang phục người Việt có đặc trưng riêng, khác biệt so với các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ và vùng lân cận.
1. Trang phục nam
Trang phục nam trong cuộc sống hàng ngày thường là áo cách nâu, xẻ ngực, cổ tròn, xẻ tà, có hai túi dưới. Đây là loại áo ngắn được mặc kết hợp với quần lá tọa ống rộng hoặc quần có cạp hoặc dùng dây rút. Trước đây, nam giới thường để tóc dài, buội tóc, hoặc thắt khăn đầu rìu và đóng khố.
Trong các dịp lễ, tết và hội hè, nam giới thường mặc áo dài màu đen hoặc áo dài vải the với lót trắng bên trong, đầu đội khăn xếp và quần tọa màu trắng. Áo dài này thường có xẻ nách phải và không có trang trí hoa văn, hoặc chỉ có những hoa văn dệt tinh tế cùng màu trên vải. Chân thường đi guốc mộc.
2. Trang phục nữ
Trang phục nữ trong cuộc sống hàng ngày của phụ nữ miền Bắc và bắc Trung bộ thường là áo cách ngắn vải nâu kết hợp với yếm. Áo cách ngắn có cổ tròn, viền nhỏ, và tà mở. Khi mặc áo cách ngắn với yếm, thường không cài cúc ngực. Yếm có màu vàng tơ tằm hoặc hoa hiên, nâu non, là một vuông vải được mang chéo trước ngực, góc trên được khoét tròn hoặc hình chữ V để tạo cổ. Cổ yếm có dải vải buộc ra phía sau gáy và dưới cổ yếm có hai dải vải dài buộc sau lưng thành hình chữ nhật hoặc tam giác. Váy thường là loại váy kín (ống), có những nơi mặc ngắn đến ống chân, như miền Bắc và Trung bộ. Thắt lưng là một bao lưng bằng vải màu (có những nơi gọi là ruột tượng) được quấn ra ngoài cạp váy. Khi ra đường, phụ nữ thường mang khăn vuông đội theo lối “mỏ quạ” hoặc các loại nón như thúng, ba tầm…
Trong các dịp lễ, tết và hội hè, phụ nữ Việt thường mặc áo dài. Áo dài có hai loại: loại xẻ ngực buông vạt không cài cúc bên trong, thường được mặc với áo “cổ xây” để tạo vẻ kín đáo; và loại thứ hai là áo năm thân, xẻ nách phải với cổ đứng. Có loại áo dài mặc theo lối vạt đè chéo lên nhau, dùng dây lưng buộc ngang thân rồi để buông xuống phía trước. Thường để tóc dài và vấn khăn thành vành tròn quanh đầu, hoặc ngoài đóng khăn hoặc đội nón ba tấm, nón thúng. Các thiếu nữ thường buội tóc thành đuôi gà. Trong mùa rét, thường quấn chiếc khăn vuông màu thâm trên đầu. Trang sức bao gồm các loại trâm, vòng cổ, hoa tai, nhẫn, vòng tay theo phong cách từng vùng.
Phụ nữ ở miền Nam Bộ thường mặc áo bà ba trong cuộc sống hàng ngày, với các kiểu cổ tròn, cổ trái tim và cổ bà lai. Phụ kiện đi kèm với áo bà ba là chiếc khăn rằn thường có các ô vuông xen kẽ hai màu, đây là loại khăn có nguồn gốc từ người Khơ Me mà người Việt đã được ảnh hưởng. Ngoài ra, người phụ nữ Nam Bộ thường đội chiếc nón lá. Chiếc nón lá có sườn gồm những nan tre được xếp thẳng dọc và khoảng 16 vòng nan tre xếp tròn từ nhỏ lên đỉnh nón dần lớn theo vành nón. Ngày nay, chiếc nón lá thường được sử dụng trong lớp phụ nữ bình dân và ở vùng nông thôn, vì chức năng chủ yếu của nó là che nắng cho người lao động vất vả, nên phải có độ bền và cứng cáp, không nhẹ nhàng và mỏng manh như chiếc nón lá truyền thống ở Huế.
Nhà cửa dân tộc Việt (Kinh)
Nhà của dân tộc Kinh đa dạng tùy thuộc vào từng vùng, miền. Người Việt thường xây dựng nhà trệt. Cấu trúc chính của ngôi nhà thường gồm 3 gian hoặc 5 gian, trong đó gian giữa được coi là quan trọng nhất và là nơi đặt bàn thờ tổ tiên. Các gian bên được sử dụng để nghỉ ngơi và sinh hoạt của các thành viên trong gia đình, trong đó gian buồng thường được dành cho phụ nữ và cũng là nơi để lưu trữ lương thực và của cải của gia đình. Nhà bếp thường được kết hợp với chuồng nuôi gia súc.
Ở nhiều tỉnh ở miền Nam, nhà bếp thường được xây sát kề hoặc nối kề với ngôi nhà chính. Sân nhà được sử dụng để phơi đồ và là không gian sinh hoạt gia đình, đồng thời tạo cảm giác mát mẻ, phù hợp với khí hậu nhiệt đới ẩm.
Ngày nay, do dân số tăng và diện tích đất hạn chế, nhiều làng quy mô lớn phải chia thành các khuôn viên nhỏ hơn, và những ngôi nhà truyền thống với sân-vườn rộng dần được thay thế bằng nhà mái bằng và nhà tầng hình ống hiện đại.
Pingback: Danh sách dân tộc Việt Nam - ATI