Dân tộc Mông hay H’ là một trong những dân tộc thiểu số lớn nhất tại Việt Nam, với khoảng hơn 1 triệu người, phân bố chủ yếu tại các tỉnh phía Bắc như Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lạng Sơn và Tuyên Quang. Người Mông thường sinh sống ở các khu vực miền núi, với nền kinh tế chủ yếu là trồng lúa, chăn nuôi và làm thủ công.
Mục lục
Giới thiệu dân tộc Mông Việt Nam
Các dân tộc Mông (hay H’Mông) tại Việt Nam được chia thành nhiều nhóm nhỏ, bao gồm Mông Trắng, Mông Đen, Mông Đỏ, Mông Hoa, Mông Xanh, Mông Mán và Na Mẻo. Mỗi nhóm lại có nền văn hoá và phong tục riêng, cùng với đó là ngôn ngữ và trang phục đặc trưng.
Trong số đó, người Mông Đen thường ưa chuộng mặc những bộ trang phục đen tối, trong khi đó, người Mông Trắng thường ưa chuộng mặc những bộ trang phục trắng tinh khiết. Ngoài ra, các nhóm khác của người Mông cũng có những sắc màu và phong cách trang phục riêng biệt, đại diện cho sự đa dạng và độc đáo của văn hoá Mông.
Tuy nhiên, trang phục chỉ là một phần nhỏ trong nền văn hoá và phong tục của người Mông. Họ còn có những nét đặc trưng về tín ngưỡng, nghệ thuật, phong thủy, ẩm thực và các hoạt động vui chơi, giải trí. Tất cả tạo nên một nền văn hoá phong phú, đa sắc và đáng khám phá của người Mông.
Dân số và địa bàn cư trú dân tộc Mông tại Việt Nam
Dân tộc Mông là một trong những dân tộc thiểu số quan trọng trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Họ thường sinh sống ở các vùng núi cao từ 800 đến 1500 mét so với mực nước biển, trải dài trên địa bàn rộng lớn, dọc theo biên giới Việt – Trung và Việt – Lào, từ Lạng Sơn đến Nghệ An. Các tỉnh thuộc Đông và Tây Bắc Việt Nam như Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La… là nơi tập trung chủ yếu của người H’Mông. Ngoài ra, do tập quán du cư, một số người H’Mông đã di dân vào Tây Nguyên, sống rải rác tại một số nơi thuộc Gia Lai và Kon Tum trong những năm 1980, 1990.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Mông ở Việt Nam có dân số khoảng 1.393.547 người, xếp thứ 6 trong số các dân tộc ở Việt Nam. Họ sinh sống tại 62 trong tổng số 63 tỉnh, thành phố, tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc miền núi phía Bắc bao gồm Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Cao Bằng, Đắk Lắk, Đắk Nông, Nghệ An, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thanh Hóa và Thái Nguyên. Người Mông tập trung nhiều nhất tại các tỉnh Hà Giang, Điện Biên và Sơn La, chiếm tổng số người H’Mông tại Việt Nam lần lượt là 21,7%, 16,0% và 14,7%.
- Tỉnh Hà Giang có 292.677 người H’Mông, chiếm 31,9% dân số tỉnh. Họ sinh sống tại hầu hết các huyện của tỉnh với hai nhóm chính là H’Mông trắng và H’Mông hoa, cư trú xen kẽ với các dân tộc khác.
- Tỉnh Điện Biên có 228.279 người H’Mông, chiếm 34,8% dân số tỉnh. Họ tập trung nhiều nhất là ở Tủa Chùa, Điện Biên, Điện Biên Đông, Mường Chà, Tuần Giáo, Mường Nhé và Nậm Pồ. Có các nhóm như người H’Mông Trắng sống rải rác ở các vùng Tủa Chùa, Tuần Giáo, Mường Chà, người H’Mông Đỏ ở Mường Chà, người H’Mông Đen tập trung đông ở khu vực Tủa Chùa.
- Tỉnh Sơn La có 200.480 người H’Mông, chiếm 14,6% dân số tỉnh. Họ sống rải rác ở các xã vùng cao của tỉnh.
- Tỉnh Lào Cai có 183.172 người H’Mông, chiếm 23,8% dân số tỉnh. Có các nhóm như H’Mông Hoa tại Bắc Hà, H’Mông Đen tại Sa Pa, H’Mông Trắng tại Bát Xát, người H’Mông Xanh tại vùng núi Nậm Tu, xã Nậm Xé, huyện Văn Bàn.
- Lai Châu có tổng số dân là 110.323 người. Nhóm H’Mông Trắng chiếm tỷ lệ đông nhất ở tỉnh này, chiếm 60% dân số và tập trung chủ yếu ở các huyện Mường Tè, Sìn Hồ, Phong Thổ, Than Uyên. Trong khi đó, nhóm H’Mông Hoa cư trú ở các huyện Tam Đường và Tân Uyên, nhóm H’Mông Đen cư trú ở các huyện Sìn Hồ và Phong Thổ, nhóm H’Mông Đỏ sinh sống tại các xã Dào San, Tung Qua Lìn thuộc huyện Phong Thổ, và nhóm H’Mông Xanh sinh sống tại bản Ma Sang, xã Nậm Pì, huyện Nậm Nhùn.
- Ở Yên Bái, có tổng số dân là 107.049 người, tập trung chủ yếu ở các huyện Mù Căng Chải với 57.179 người và huyện Văn Chấn với 13.353 người, cùng với đó là các miền núi của huyện Văn Yên và Trấn Yên. Nhóm H’Mông Hoa và H’Mông Đỏ chiếm tỷ lệ đông đảo trong tỉnh.
- Cao Bằng có tổng số dân là 61.579 người, tập trung chủ yếu ở các huyện Bảo Lạc và Bảo Lâm.
- Đắk Lắk và Đắk Nông là hai tỉnh miền Trung có số dân H’Mông khá đáng kể, với tổng số lần lượt là 39.241 và 34.976 người, đều di cư sau năm 1975.
- Nghệ An có tổng số dân H’Mông là 33.957 người, tập trung chủ yếu tại các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương và Quế Phong.
- Bắc Kạn có tổng số dân H’Mông là 22.608 người, tập trung chủ yếu tại huyện Pác Nặm.
- Tuyên Quang có tổng số dân H’Mông là 21.310 người.
- Cuối cùng, Thanh Hóa có tổng số dân H’Mông là 18.585 người, chủ yếu tập trung ở 6 xã miền núi thuộc 3 huyện Quan Hoá, Quan Sơn và Mường Lát. Thái Nguyên có tổng số dân H’Mông là 10.822 người.
Văn hóa dân tộc Mông tại Việt Nam
1. Ẩm thực
Người Mông thường ăn hai bữa mỗi ngày trong những ngày bình thường và ba bữa trong những ngày mùa. Bữa ăn truyền thống thường bao gồm cơm hoặc mèn mén (bột ngô đồ), rau xào mỡ và canh. Bột ngô thường được xúc ăn bằng thìa gỗ. Những người phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô hoặc gạo vào những ngày lễ tết.
Người Mông thường uống rượu ngô hoặc rượu gạo, và thường hút thuốc bằng điếu cày. Đưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước đây, việc hút thuốc phiện cũng tương đối phổ biến trong cộng đồng người Mông.
“Mèn mén” là món ăn truyền thống của người Việt Nam, được chế biến từ ngô hạt. Để chế biến món ăn này ngon, cần thực hiện các bước sau:
- Xay ngô hạt nhỏ bằng cối đá. Cần xay hai lần để đạt được độ nhỏ và mịn cần thiết.
- Cho bột ngô vào chõ đồ, đảo đều với độ ẩm vừa phải. Khi cầm nắm bột ngô, không bị dính và không bị bở ra là đạt được.
- Cho vào chõ đồ lần 1, đến khi món ăn hơi bốc lên và có mùi thơm thì đổ ra mẹt vẩy thêm một ít nước rồi đảo đều cho tơi ra.
- Cho vào chõ đồ lần 2 và đảo đều. Khi có mùi thơm lừng bốc lên, khi đó mèn mén đã chín.
- Bưng món ăn ra chỗ cao ráo để ăn trong cả ngày.
Lưu ý: việc chế biến “mèn mén” cần có kỹ năng và kinh nghiệm, cũng như sự đánh giá chính xác về độ ẩm cần thiết của bột ngô để đảm bảo thành phẩm được thơm ngon và đậm đà hương vị.
2. Tục cưới hỏi
Trong lễ hỏi của người H’Mông, sau khi đưa cô gái về nhà trong ba ngày, người con trai phải đồng hành với cha mẹ đến nhà cô gái để làm lễ vật gồm thịt lợn, thịt gà và rượu. Lễ vật được đem sang nhà cô gái như một hình thức tạ ơn và đồng ý cho hai người kết hôn. Sau khi làm lễ, người con trai phải ngủ lại tại nhà cô gái một đêm và chỉ được về sớm vào ngày hôm sau. Khi hôn sự được gia đình hai bên chấp thuận, hai người coi như đã kết hôn và có thể sống chung với nhau cho đến khi có điều kiện kinh tế đủ để tổ chức đám cưới. Có thể có những đôi đã có con trước khi tổ chức đám cưới.
Ngày nay, một số thủ tục trong lễ hỏi đã được thay đổi theo hướng hiện đại, pha trộn giữa các nghi thức truyền thống và nghi lễ rót rượu của phương Tây. Tuy nhiên, một số gia đình có điều kiện kinh tế sẽ tổ chức đám cưới tại nhà hàng thay vì ở gia đình như truyền thống.
Trong nghi lễ kết hôn của người H’Mông, cấm cưới nhau trong cùng họ vì họ tin rằng những người trong cùng họ sẽ có quan hệ họ hàng và quan hệ máu mủ.
3. Đón Tết
Trong nền văn hóa của người H’Mông, việc ăn tết và cúng tết không cầu kỳ và phức tạp. Ngoài tết riêng của họ, người H’Mông còn chuẩn bị nhiều đồ ăn, thức uống để đón Tết cùng người Kinh. Trong đó, món truyền thống không thể thiếu là thịt gác bếp, mèn mén, cải xanh và ớt nướng làm muối chấm trong bữa ăn.
Người H’Mông bắt đầu ăn tết từ tháng Chạp theo lịch truyền thống của họ.
- Theo truyền thống, từ ngày 25 tháng Chạp là thời điểm mọi người đem lễ đến “trả ơn” cho thầy thuốc, thầy dạy khèn, thầy cúng để tỏ lòng biết ơn. Vì thầy cúng thường dành thời gian cúng lễ cho người dân trong bản vào ngày thường, nên ngày Tết là dịp để thầy cúng nghỉ ngơi. Đây cũng là dịp để người trong bản đến lạy trả ơn thầy cúng. Ngoài ra, nếu có người H’Mông sinh ra khó nuôi được thì họ sẽ đổi họ và nhân dịp Tết để lạy trả hiếu cho cha mẹ nuôi.
- Ngày 30 tết, sau khi làm bánh giầy xong, người H’Mông “treo niêu” và không ăn uống trong một ngày. Đêm giao thừa, mỗi gia đình sẽ tự làm mâm lễ để cúng tổ tiên và đón giao thừa.
- Trong ngày mùng một tết, người H’Mông tuyệt đối không dùng nồi chảo đựng nước, ăn cơm không nấu món canh, không được chải đầu và giặt quần áo và không đi đâu hết trong ngày mùng một. Mùng hai, mùng ba mới được rủ nhau đi chơi. Nếu vi phạm, xong tết lúa cấy sẽ không mọc và cả năm sẽ bị ngập lụt, lũ quét. Người vợ sẽ được nghỉ ngơi, còn chồng phải vào bếp nấu ăn. Nấu ăn phải cẩn thận, không để cho lửa bén vào người. Sáng mùng một, mọi người được ngủ thẳng giấc mà không ai được đánh thức.
- Ngày mùng hai là ngày thực hiện nghi lễ “lạy tết”. Người con gái H’Mông khi lấy chồng được xem như đã “cắt linh hồn về với nhà chồng”, nên ngày tết là dịp để trả ơn cha mẹ đẻ. Trong ba năm đầu khi về nhà chồng, mỗi năm vào ngày mùng hai tết, người con gái sẽ được cha mẹ chồng đưa về để “lạy tết” cha mẹ ruột. Đêm 30 tháng 11 âm lịch là đêm giao thừa, từ mồng một đến mồng ba hoặc mồng năm tết là thăm hỏi, chúc tết họ hàng, người thân, sau đó vui chơi.
Trang phục dân tộc Mông
Trang phục truyền thống của người Mông thường được may bằng vải lanh tự dệt. Tính cách tộc người được thể hiện rõ nét trong cách tạo hình và trang trí trên trang phục, sử dụng kỹ thuật đa dạng.
Trang phục nam của người Mông có đặc điểm riêng biệt so với các tộc người khác trong khu vực. Trang phục nữ cũng có sự khác biệt lớn bởi sự kết hợp giữa phong cách tạo dáng và trang trí công phu, kết hợp với các kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn trên kiểu váy rộng và đẹp.
- Trang phục nam: Trang phục truyền thống của người Mông nam bao gồm áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Có hai loại áo: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên và hai túi dưới, thường không trang trí, trong khi đó loại năm thân được trang trí với những đường vằn ngang trên ống tay. Đầu thường được chít khăn, đôi khi có nhóm đội mũ xung quanh với hình tròn bạc chạm khắc hoa văn. Quần truyền thống của người Mông nam là loại chân què với ống rất rộng so với các tộc người khác trong khu vực. Ngoài ra, còn có thể thấy những chi tiết trang trí bằng bạc trên quần và thắt lưng.
- Trang phục nữ: Điều đặc biệt là trang phục nữ của người Mông rất khó lẫn lộn với các tộc người khác bởi phong cách tạo dáng và trang trí công phu, kết hợp kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn với kiểu váy rộng và đẹp.Phụ nữ Mông có nhiều nhóm khác nhau và trang phục của từng nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên, nếu nhìn chung, phụ nữ Mông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không có nút cài, gấu áo không được khâu hoặc cho vào trong váy. Ống tay áo thường được trang trí hoa văn bằng những đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹp hai thân trước được trang trí bằng viền vải khác màu (thường là đỏ và hoa văn trên nền chàm). Phụ nữ Mông cũng có thể dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau cổ áo thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc.Váy phụ nữ Mông là loại váy kín, có nhiều nếp gấp, rộng và khi xòe ra có hình tròn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Mông (Hóa, Xanh, Trắng, Đen…). Các loại váy này thường được làm từ vải lanh tự dệt và có thể là váy trắng, váy đen, váy in hoa, và có kết hợp với kỹ thuật vẽ sáp ong và thêu. Khi mặc váy, thường mang theo tạp dề, tạp dề thường được đeo phía trước bụng, phủ xuống chân và là ‘giao thoa’ giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người Mông.
Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu và có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức của phụ nữ Mông bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân và nhẫn.
Nhà cửa dân tộc Mông
Ngôi nhà của người Mông có những đặc trưng riêng. Thường là nhà ba gian không có chái, được xây dựng bằng khung gỗ đơn giản, chủ yếu bao gồm ba cột và một hoặc hai xà ngang.
Trong tổ chức mặt bằng, các nhà Mông có một số đặc trưng chung như gian chính giữa được giáp vách hậu và là nơi đặt bàn thờ tổ tiên cũng như là nơi dành cho ăn uống hằng ngày. Ngoài ra, còn có một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam, và một gian đầu hồi bên kia dành cho sinh hoạt của nữ và đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp của người Mông thuộc loại bếp kín – bếp lò, một sản phẩm của phương Bắc. Chuồng gia súc thường được đặt trước mặt nhà.
Tuy nhiên, ở một số vùng địa lý khác nhau, nhà người Mông còn có những đặc trưng riêng như ở Thuận Châu và Mộc Châu, Sơn La. Ở đây, ngôi nhà được xây dựng theo hình thức nóc của người Thái Ðen, với nóc hình mai rùa nhưng không có khau cút. Bộ khung nhà cũng được làm theo kiểu Thái, tuy nhiên cách bố trí trong nhà vẫn giữ lại hình thức cổ truyền của người Mông.
Hoạt động sản xuất – kinh tế của dân tộc Mông
Người Mông có truyền thống làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch để kiếm sống. Họ cũng trồng các loại cây khác như ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu để trồng xen canh trên nương. Ngoài ra, họ còn trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận và dệt vải lanh.
Chiếc cày của người Hmong rất bền và hiệu quả. Người Hmong cũng phát triển nhiều nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, đồ đựng và làm giấy bản. Họ cũng làm trang sức bằng bạc để phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công của người Hmong là những bậc thầy chuyên nghiệp trong việc làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng và các đồ đựng bằng gỗ ghép.
Người Mông chủ yếu chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà và ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất hiệu quả trên vùng núi đá cao. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Chợ ở vùng Mông là nơi giao lưu và trao đổi hàng hoá của người dân, đáp ứng nhu cầu mua bán và sinh hoạt của cộng đồng.
Pingback: Danh sách dân tộc Việt Nam - ATI