Dân tộc Mảng là một trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Theo thống kê của Chính phủ Việt Nam năm 2019, số người Mảng ở Việt Nam là khoảng 4.650 người.
Mục lục
Giới thiệu dân tộc Mảng Việt Nam
Dân tộc Mảng phân bố chủ yếu ở miền núi phía Bắc tập trung chủ yếu ở Lai Châu. Họ có văn hóa và phong tục riêng, phát triển từ lâu đời và được bảo tồn qua nhiều thế hệ.
Ngôn ngữ của dân tộc Mảng được chia thành nhiều nhánh khác nhau, với mỗi nhánh có một số đặc điểm phát âm, từ vựng và ngữ pháp khác nhau. Tuy nhiên, các nhánh ngôn ngữ này đều có một điểm chung là sử dụng chữ viết dựa trên bảng chữ cái La Tinh.
Dân tộc Mảng có nền văn hóa phong phú, đa dạng, bao gồm những nét đặc trưng riêng biệt như tập tục lễ hội, phong tục tập quán, âm nhạc, múa lân, múa bụng và đặc biệt là nghệ thuật thêu tay. Ngoài ra, họ còn có nhiều truyền thuyết, truyền kỳ và lịch sử về vùng đất nơi họ sinh sống.
Tuy nhiên, như nhiều dân tộc thiểu số khác trên thế giới, dân tộc Mảng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế, giáo dục và văn hóa. Chính phủ và các tổ chức địa phương đang nỗ lực để bảo vệ và phát triển văn hóa, giáo dục và kinh tế cho dân tộc Mảng.
Nguồn gốc lịch sử dân tộc Mảng
Người Mảng có nguồn gốc lịch sử rất lâu đời, từ thời kỳ Đồ đá cũng đã có sự sinh sống của các bộ lạc ở khu vực này. Xưa nay vùng Nặm Ban (Dum Bai) thuộc xã Nặm Ban, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu vẫn được gọi là “quê hương” của người Mảng.
Tên gọi chính thức của dân tộc này là Mảng, tuy nhiên, họ còn được gọi với các tên khác như Mảng Ư, Xá Mảng, Niểng O, Xá Bá O. Họ cũng được chia thành nhiều nhóm địa phương như Mảng Gứng, Mảng Hệ.
Dân số và địa bàn cư trú dân tộc Mảng
Dữ liệu từ cuộc Điều tra 53 dân tộc thiểu số vào ngày 01/04/2019 cho biết rằng dân tộc Mảng có tổng số 4.650 người, trong đó có 2.313 nam và 2.337 nữ. Trung bình mỗi hộ có quy mô 4,8 người. Tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn của dân tộc này đạt tới 97,4%. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc chỉnh sửa nội dung không trùng với SEO là không quan trọng bằng việc đảm bảo tính chính xác và rõ ràng của thông tin.
Địa điểm cư trú tập trung chính của khu vực này là tỉnh Lai Châu, nằm trên vùng biên giới phía bắc của Việt Nam và giáp ranh với đất nước Trung Quốc.
Ngôn ngữ dân tộc Mảng
Theo khảo sát của Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu, người Mảng bảo tồn và sử dụng tiếng nói của dân tộc mình khá tốt, trong đó 100% người dân sử dụng ngôn ngữ này trong sinh hoạt hằng ngày. Khi giao tiếp với người ngoài, một số người có thể sử dụng tiếng phổ thông, tiếng Thái, tiếng Hà Nhì và tiếng Hmông.
Về giáo dục, theo số liệu từ Điều tra 53 dân tộc thiểu số vào ngày 01/04/2019, tỷ lệ người Mảng từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 46,2%; tỷ lệ người đi học chung cấp tiểu học là 104,3%; tỷ lệ người đi học chung cấp trung học cơ sở là 88,9%; tỷ lệ người đi học chung cấp trung học phổ thông là 38,8%; tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường là 14,3%.
Đặc điểm văn hóa của dân tộc Mảng
Ăn uống
Người Mảng thường ăn hai bữa trong ngày, bao gồm cơm trưa và cơm tối. Lương thực chính trong chế độ ăn uống của họ là ngô, thường được trộn với sắn hoặc ít gạo để tăng hương vị. Lá sắn non đồ muối là một trong những thực phẩm chính của người Mảng. Họ cũng có thói quen hút thuốc láo và uống rượu trắng.
Trang phục
Y phục truyền thống của phụ nữ Mảng có một nét độc đáo là tấm choàng được quấn quanh thân, được làm bằng vải thô màu trắng và được thêu với hàng chỉ đỏ ở giữa. Phụ nữ Mảng để tóc buông thả và thường buộc tóc lại thành chỏm trên đầu bằng dây có tua khá đẹp. Chân thường quấn xà cạp.
Tục xăm mặt
Trước đây, cả nam và nữ Mảng đều có thói quen xăm mặt O ăm (còn được gọi là xăm mồm hoặc xăm cằm). Đây là một nghi lễ quan trọng để xác định người trưởng thành (con trai từ 16 đến 18 tuổi và con gái từ 15 đến 16 tuổi) và được xem là thành viên chính thức của cộng đồng. Xăm mặt cũng được coi là phương tiện để người Mảng được công nhận và tôn trọng bởi tổ tiên sau này.
Quan hệ xã hội
Pơgia là người đứng đầu tổ chức xã hội truyền thống trong dân tộc Mảng. Tổ chức bản (Muy) vẫn được duy trì theo tập quán truyền thống. Bản có trưởng bản trông coi về thu thuế tạp dịch. Trong bản thường có một dòng họ lớn, các trưởng họ cùng với hội đồng già làng điều hành mọi hoạt động xã hội, tôn giáo theo tập quán. Người Mảng có 5 họ chính, mỗi họ lấy một con vật làm vật tổ.
Nhà ở
Mặc dù nhà người Mảng rất tạm bợ, nhưng từ khâu chọn đất, san nền, dựng cột cho đến lợp đều phải nhờ thầy bói xem ngày, giờ rồi mới tiến hành dựng nhà. Lễ này gồm nhiều đặc trưng nghi lễ phức tạp thể hiện đặc trưng tộc người.
Lễ Tết
Ngoài tết Nguyên đán, người Mảng còn ăn tết Cơm Mới sau vụ gặt tháng 10 âm lịch. Hàng năm, dân bản còn cúng ma bản và ma nhà để yêu cầu yên. Đặc biệt, ở họ tồn tại hàng loạt nghi lễ liên quan đến nông nghiệp, bao gồm lễ gieo nương, cúng hồn lúa, mẹ lúa và cúng sau vụ thu hoạch.
Thờ cúng
Trong truyền thống của người Mảng, ma nhà được cúng vào dịp tết hoặc khi trong nhà có người đau ốm. Họ tin rằng có nhiều ma và ma nhà có vị trí đặc biệt quan trọng. Ngoài ra, họ cũng thờ ma Ðẳm – tổ tiên và dòng họ.
Văn nghệ
Làn điệu dân ca “xoỏng” được nhiều người biết đến và ưa thích trong nền văn hóa của người Mảng. Ngoài ra, họ còn lưu giữ truyền thuyết kể về vùng đất tổ của mình, đó là Muăng Buăng – một địa điểm trên sườn núi thuộc xã Nậm Ban, huyện Sìn Hồ (hiện nay thuộc huyện Nậm Nhùn).
Điều kiện kinh tế
Người Mảng phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp và đánh bắt thủy sản để sinh sống. Trước đây, họ chăn nuôi gia súc nhỏ, sau đó chuyển sang gia súc lớn. Nghề đan lát là nghề truyền thống phát triển, đạt đến trình độ tinh xảo, trong khi nghề dệt không phát triển. Các sản phẩm đan lát chủ yếu được trao đổi với người Thái để lấy các sản phẩm may mặc, và nghề khâu nón cũng rất phát triển.
Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo của người Mảng là 66,3%, tỷ lệ hộ cận nghèo là 10,2%, tỷ lệ thất nghiệp là 0,67%, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 4,0%, tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực phi nông nghiệp là 11,2%, tỷ trọng lao động làm công việc quản lý hoặc CMKT bậc cao và trung là 1,7%, và tỷ lệ hộ làm nghề thủ công truyền thống là 0,11%.
Pingback: Danh sách dân tộc Việt Nam - ATI