Dân tộc Lự là một trong những dân tộc bản địa của Việt Nam, sống chủ yếu ở vùng núi cao phía Bắc của đất nước. Theo thống kê dân số của năm 2019, tổng số người Lự ở Việt Nam khoảng hơn 6.700 người Lự sinh sống.
Mục lục
Giới thiệu dân tộc Lự Việt Nam
Người Lự, hay còn gọi là người Tày Lự, người Thái Lự hay còn gọi là Thái Lặc tộc là một dân tộc thiểu số sinh sống trong khu vực Lào, Thái Lan, Myanmar, Việt Nam và Trung Quốc.
Tiếng nói chính thức của người Lự là tiếng Lự, là một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, họ ngôn ngữ Kra-Dai (Tai-Kadai). Người Lự cũng sử dụng ngôn ngữ chính thức tại các quốc gia mà họ sinh sống.
Ở Việt Nam, người Lự được công nhận là một trong số 54 dân tộc bản địa. Theo thống kê dân số của năm 2019, có hơn 6.700 người Lự sinh sống tại Việt Nam.
Dân số và địa bàn cư trú dân tộc Lự tại Việt Nam
Người Lự là một dân tộc thiểu số trong tổng số 54 dân tộc ở Việt Nam, được công nhận chính thức. Dân số của dân tộc này đã có sự tăng trưởng nhất định theo các điều tra dân số.
Theo điều tra dân số năm 1999, dân số của người Lự là khoảng 4.964 người. Tuy nhiên, theo ước tính của Ủy ban dân tộc Việt Nam năm 2003, dân số của dân tộc này đã tăng lên thành 5.553 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lự ở Việt Nam có dân số 5.601 người, tập trung chủ yếu tại 21 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Trong đó, tỉnh Lai Châu là nơi tập trung nhiều nhất với 5.487 người, chiếm 98,0% tổng số người Lự ở Việt Nam. Các tỉnh khác như Thái Nguyên chỉ có số lượng người Lự không quá 10 người.
Như vậy, dân số của người Lự đã có sự tăng trưởng đáng kể sau các điều tra dân số và họ tập trung chủ yếu ở một số tỉnh nhất định ở Việt Nam.
Đặc điểm kinh tế dân tộc Lự
Người Lự có truyền thống làm ruộng từ lâu đời. Họ sử dụng cày bừa, đào mương dẫn nước, gieo mạ, cấy lúa, nhưng không sử dụng cỏ và phân bón. Họ cũng trồng nhiều loại cây trồng khác nhau như lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, bông, chàm và đặc biệt thường trồng vườn cạnh nhà.
Tập quán ăn uống của người Lự là ăn cơm nếp chính và thường ăn kèm với ớt. Họ thích uống nước chè và đàn ông thường hút thuốc lào.
Nghề dệt là một nghề phổ biến trong văn hóa người Lự. Mỗi gia đình thường có vài ba khung cửi và tài nghệ dệt, may, thêu đều khá cao. Trang phục của người Lự thường có hoa văn trang trí rực rỡ trên nền vải nhuộm chàm, nhất là trong các dịp lễ hội.
Tại Việt Nam, người Lự sinh sống chủ yếu tại hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Theo các cuộc điều tra dân số, dân tộc này hiện có khoảng 5.601 người, phân bố chủ yếu tại tỉnh Lai Châu và một số tỉnh khác với số lượng không quá 10 người.
Hôn nhân gia đình dân tộc Lự
Người Lự có phong tục tìm hiểu nhau tự do trước khi kết hôn, tuy nhiên họ phải nhờ thầy số xem tuổi trước khi quyết định. Nếu hai người hợp tuổi, gia đình hai bên sẽ họp mặt để thảo luận việc kết hôn. Tên của con trai thường có chữ đệm Bạ, còn con gái thường có chữ đệm Ý. Khi kết hôn, con trai sẽ sống trong nhà của vợ và đóng vai trò là người ở rể trong gia đình. Sau vài năm sống chung, con trai sẽ ra ở riêng.
Người Lự là một dân tộc sống tình nghĩa, thủy chung. Họ rất ít khi ly dị và việc ly dị đều bị xem là điều xấu trong văn hóa của họ. Nếu trai bỏ vợ hoặc gái bỏ chồng, họ sẽ bị phạt nặng theo luật tục.
Tục lệ ma chay dân tộc Lự
Theo tập quán của người Lự, sau khi chôn cất người chết một thời gian, tang gia sẽ tiến hành làm một mái nhà táng giấy với trang trí đẹp. Sau đó, họ sẽ đưa vải, đệm, gối, thóc, tiền vào nhà táng để chuẩn bị cho lễ đưa linh hồn người chết vào chùa. Tại đây, họ sẽ tổ chức lễ cúng để tưởng nhớ đến người đã khuất và cầu mong cho linh hồn được an vui trong cõi bất diệt
Đặc điểm văn hóa dân tộc Lự
Người Lự thường hát dân ca, yêu thích truyện cổ, thơ ca và tục ngữ. Âm nhạc đương đại của người Lự được ảnh hưởng bởi các dòng nhạc mó lam, luk thung và múa truyền thống lâm vông, phổ biến ở Lào và Thái Lan.
Tuyên Phủ Ti là một lễ nghi nhạc vũ có nguồn gốc từ lịch sử Tuyên Phủ Ti, được tổ chức chủ yếu tại khu vực Na Doãn Cổ trấn, huyện tự trị dân tộc Thái-Lạp Hỗ-Ngõa Mạnh Liên. Nằm ở giữa Tây Song Bản Nạp thuộc tây Vân Nam và Đức Hoành thuộc nam Vân Nam, huyện Mạnh Liên có thể coi là một khu vực biên giới của người Thái và được định cư vào năm 1256 sau cuộc chinh phục Đại Lý của người Mông Cổ vào năm 1254, khiến người Thái từ trung tâm Vân Nam phải đi tìm kiếm vùng đất mới.
Các nhạc cụ truyền thống được sử dụng để chơi nhạc nghi lễ Huyền Phủ đa phần được làm thủ công hoặc tu sửa tại các thôn Mang Lãng Trại (芒朗寨), Mạnh A (勐阿村), Mạnh Ma (勐马镇) thuộc huyện Mạnh Liên. Những nhạc cụ này gồm:
- Đính (定): đàn lute với hộp âm thanh mảnh, lưng tròn được chạm khắc từ một khối gỗ duy nhất, tương tự như ngưu thối cầm (牛腿琴) của người Động.
- Sảnh (省): đàn lute gảy với 4 dây trong các khóa kép, có thể so sánh với sueng (ซึง) của vùng Lan Na ở miền Bắc Thái Lan.
- Phi mại (非迈): lá cây, được chơi như một nhạc cụ lưỡi gà.
- Đa la (哆啰 hoặc 多罗): đàn nhị với bát nhị làm từ gáo dừa, có thể so sánh với đàn nhị xò lò miền bắc Thái Lan (สะล้อ).
- Bì thu (比秋): một loại sáo dọc nhỏ truyền thống.
- Trúc ti (竹丝): sáo bầu.
- Ca lạp tát (嘎拉萨): đàn phím kim loại, tương đương với Ranat ek lek (ระนาดเอก เหล็ก) của Thái Lan.
- Tượng cước cổ (象脚鼓): “trống chân voi”, trống tay dài một đầu với thân hình chiếc cốc được chạm khắc từ một khúc gỗ. Thái Lan gọi là Klong yao (กลอง ยาว), Lào gọi là Khawng yao và Campuchia gọi là skor chhaiyam (tiếng Khmer: ស្គរឆៃយ៉ាំ).
- Mang la (铓): cồng núm đồng.
- Sai (钗): chũm chọe.
- Tam giác đồng phiến (三角铜片): kẻng tam giác.
- Đồng linh (铜铃): cặp chũm chọe rất nhỏ, dày, âm vực cao.
- Bạch lãng (帕朗): bộ chuông đồng.
Chữ viết người Lự
Người Lự sử dụng chữ viết có ảnh hưởng từ chữ Môn của Miến Điện. Tuy nhiên, chữ Thái Lự mới được phát triển ở Trung Quốc vào những năm 1950, dựa trên bảng chữ cái Tai Tham truyền thống được phát triển vào khoảng năm 1200. Vì thế, chữ Thái Lự còn được gọi là chữ Tây Song Bản Nạp tân Thái văn hoặc chữ Tày Lự giản thể. Chính phủ Trung Quốc đã quảng bá bộ chữ mới để thay thế cho bộ chữ cũ hơn. Tuy nhiên, việc dạy chữ là không bắt buộc và kết quả là nhiều người không biết đến chữ Tày Lự mới. Các cộng đồng người Lự ở Myanmar, Lào, Thái Lan và Việt Nam vẫn sử dụng bảng chữ cái Tai Tham.
Trang phục dân tộc Lự
Cộng đồng người Lự ở Lai Châu sinh sống tại các bản cư trú dọc theo sông, suối. Với nghề canh tác lúa nước phát triển từ rất sớm, đời sống vật chất của người Lự khá ổn định, đồng thời văn hóa tinh thần cũng phong phú và đa dạng, mang đậm bản sắc dân tộc. Trong đó, phụ nữ dân tộc Lự là người giữ và truyền lại những nét đẹp trang phục truyền thống của bản sắc dân tộc.
Trong trang phục truyền thống của phụ nữ dân tộc Lự, bông và tằm được trồng và nuôi để lấy sợi, dệt vải phục vụ nhu cầu may mặc trong gia đình và dòng họ. Trang phục gồm có khăn đội đầu, áo, váy và thắt lưng. Ngoài ra, khi nông nhàn, phụ nữ dân tộc Lự thường quay tơ và xe sợi, giữ và truyền lại những nghệ thuật dân gian đặc sắc của bản sắc dân tộc.
Khăn đội đầu của phụ nữ Lự được làm bằng vải bông, nhuộm chàm đen, dài khoảng trên 400cm, rộng 30cm. Hai đầu khăn có tua dài khoảng 20cm. Trên nền đen của hai đầu khăn dệt xen kẽ 18 đường chỉ trắng, to nhỏ khác nhau và hai đường chỉ vàng chạy ngang tô điểm cho khăn. Khi sử dụng, khăn được gấp làm bốn theo chiều dọc và quấn quanh đầu nhiều vòng, sau đó được buội nghiêng về phía bên trái đầu. Trong khi đó, phụ nữ Lự ở Thái Lan hoặc Lào cuốn khăn vòng quanh đầu được làm bằng vải bông, nhuộm hồng hoặc để trắng. Sau khi cuốn xong vòng cuối, họ thường dắt phần đuôi khăn cho gọn giấu vào phần tóc hoặc để lộ ra một đoạn. Búi tóc phụ nữ Lự có điểm tương đồng với búi tóc phụ nữ Lào, Thái Lan và Campuchia.
Áo được may từ vải chàm đen, được ghép liên kết với nhau từ 6 miếng vải cắt theo hình rẻ quạt, tạo cho áo có vạt xòe rộng so với eo. Hoa văn trên áo là sự kết hợp giữa hoa văn dệt và hoa văn ghép vải. Cổ áo được liền với nẹp ngực gồm 5 miếng vải được may cầu kỳ với các màu khác nhau để tạo thành họa tiết. Miếng vải ở giữa được đính những quả hình trám màu xanh và đỏ nối tiếp nhau. Tay áo dài được may thon dần về phía cổ tay, viền một vòng vải hoa nhỏ. Sát nách có thêu hoa văn chạy vòng quanh ống tay. Trên thân áo bên trái được thêu một đường chỉ nhỏ hình dóng trúc, chạy từ cổ thẳng xuống vạt áo bằng chỉ các màu.
Vòng quanh eo từ phía trước ra phía sau có hoa văn ghép vải, được gọi là “con suối uốn lượn”. Dưới hoa văn ghép vải là những hình tam giác được thêu bằng chỉ các màu. Hai bên vạt áo được đính hai dây vải hoa, dải dây bên sườn phải có 5 tua bằng sợi len các màu có xâu những hạt cườm. Khi mặc, vạt áo được vắt chéo thân bên trái sang phía sườn phải và buộc hai dây vải với nhau.
Mỗi ngày, phụ nữ Lự thường mặc từ 2 đến 3 chiếc váy cùng một lúc. Chúng được lồng vào nhau thành nhiều tầng, mỗi chiếc cách nhau khoảng 3 đến 4cm theo chiều cao dần. Người Lự tin rằng việc mặc như vậy sẽ vừa kín đáo vừa đẹp, cũng như có thể thay đổi cho nhau khi chiếc váy ngoài đã cũ. Váy được tạo bởi ba miếng vải khác nhau, hình ống và chia làm ba phần gồm cạp, thân và chân váy.
Cạp váy được làm bằng vải bông nhuộm màu nâu không có hoa văn. Thân váy được làm bằng vải tơ tằm dược dệt trên một khung cửi riêng, kỹ thuật dệt phức tạp và đòi hỏi sự khéo léo của người dệt để tạo ra những hoa văn theo ý thích của từng người. Thân váy được chia thành hai phần rõ rệt, nửa thân tiếp giáp với cạp váy được làm bằng vải tơ tằm màu nâu sạm, trên có dệt thêm nhiều sọc màu vàng và đỏ chạy song song theo chiều ngang của váy.
Ngoài váy, bộ trang phục của phụ nữ Lự còn có thắt lưng được may bằng vải mộc trắng, hai đầu thêu hoa văn và có tua sợi mềm mại. Vòng cổ được làm bằng bạc, hình tròn, hai đầu vòng uốn gập ngược lại tạo ra hai lá hình tam giác, trên mặt lá có chạm khắc hoa dây mềm mại. Phụ nữ Lự thường búi tóc và cài hoa trên đầu, thường dùng hoa phong lan cài từ búi tóc xuống gáy nhằm che đi phần tai bên trái. Trên búi tóc, phụ nữ Lự thường cài bằng chiếc lược nhựa nằm ngang. Áo thường được làm từ vải trắng hoặc vải màu, chân váy thường là sà-rông, ảnh hưởng ít nhiều từ người Shan ở Miến Đi
Tôn giáo dân tộc Lự
Người Lự ở Trung Quốc, Lào và Thái Lan đều tuân theo tôn giáo Phật giáo Nam tông. Nơi thờ tự của người Lự thường bao gồm một chính điện, một tu viện và một phòng trống. Ngôi chùa trung tâm của Phật giáo thường có một pháp đường, một tòa nhà kinh Phật và một ngôi chùa khác. Diện mạo của chánh điện thường có mái kiểu Wat một mái hoặc kép, hoặc một đỉnh núi lơ lửng, một mái kiểu Wat kép hình đa giác hoặc hình phụ. Số lượng dốc trên dốc có liên quan đến cấp độ của ngôi chùa Phật giáo. Các đền chùa của người Lự thường có hai con sư tử chinthe canh gác hai bên cổng, tương tự như sư tử đá Trung Quốc và nghê Việt Nam. Chinthe là một sinh vật thần thoại cổ đại đứng gác ở các lối vào chùa thuộc Phật giáo Nam tông hay Tiểu thừa.
Đạo Phật nguyên thủy là tôn giáo lớn nhất của người Lự, và có nhiều lễ hội và hoạt động liên quan đến Phật giáo. Lễ hội Songkran là lễ hội lớn nhất, được tổ chức vào tháng 6 Dương lịch hàng năm, các vị Phật sẽ được tôn thờ và một bữa tiệc linh đình sẽ được tổ chức. Các nhà sư, người thân và bạn bè sẽ được mời đến dự tiệc và những lời chúc mừng sẽ được gửi đến mỗi người bằng cách té nước.
Nhà cửa dân tộc Lự
Người Lự xây nhà sàn hai mái, mái phía sau ngắn hơn mái phía trước kéo dài xuống che cả hàng hiên và cầu thang. Cửa ra vào của nhà hướng Tây Bắc và bên trong có hai bếp, một để nấu ăn và một để đun nước tiếp khách. Công trình kiến trúc của người Lự phải thích nghi với môi trường tự nhiên và xã hội, bao gồm khí hậu, độ cao, địa hình, vật liệu xây dựng, dân số, kinh tế, tôn giáo, chính trị, công nghệ và tư tưởng. Trong đó, hàng rào khô đẹp và khéo léo được đại diện bởi Tây Song Bản Nạp, và các tòa nhà kiểu cách, nhà sàn bằng đất dày và chắc chắn, có mái bằng đất được thể hiện bởi ngôi nhà dân cư của người Lự ở Cảnh Hồng (Trung Quốc), Lào và Thái Lan, cùng với các tòa nhà chùa Phật giáo trang nhã và lộng lẫy. Người Lự không chỉ có đặc trưng về kiến trúc mà còn có nhiều hoạt động văn hóa, tôn giáo, và lễ hội. Lễ hội Songkran là lễ hội lớn nhất được tổ chức hàng năm vào tháng 6 Dương lịch, trong đó các vị thần Phật được tôn vinh và các buổi tiệc linh đình, các nghi thức tôn giáo được tổ chức, các nhà sư, người thân và bạn bè được mời đến tham gia và chúc mừng nhau bằng cách té nước.
Pingback: Danh sách dân tộc Việt Nam - ATI