Dân tộc Hà Nhì là một trong những dân tộc thiểu số đang sinh sống ở Việt Nam. Theo điều tra dân số năm 2019 của Tổng cục Thống kê, tổng số người Hà Nhì ở Việt Nam khoảng 56.000 người, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên và Hà Giang.
Mục lục
- Giới thiệu dân tộc Hà Nhì Việt Nam
- Dân số và địa bàn cư trú của dân tộc Hà Nhì
- Tại Việt Nam
- Tại Trung Quốc
- Nguồn gốc của dân tộc Hà Nhì
- Ngôn ngữ của dân tộc Hà Nhì
- Đặc điểm kinh tế của dân tộc Hà Nhì
- Tổ chức cộng đồng của dân tộc Hà Nhì
- Văn hóa của dân tộc Hà Nhì
- Các dịp lễ đặc biệt của dân tộc Hà Nhì
- Tết truyền thống
- Tết thiếu nhi
- Lễ Gạ ma thú
- Hôn nhân gia đình
- Tục lệ ma chay
- Trang phục của dân tộc Hà Nhì
Giới thiệu dân tộc Hà Nhì Việt Nam
Người Hà Nhì là một dân tộc sinh sống ở Đông Nam Á và lân cận bên Trung Quốc, được gọi bằng nhiều tên khác nhau như Haqniq, Cáp Nê tộc, chữ nôm:𠊛何贰), Ha Ni, U Ní, Xá U Ní. Họ nói tiếng Hà Nhì, ngôn ngữ thuộc nhóm Lô Lô, trong ngữ tộc Tạng-Miến, ngữ hệ Hán-Tạng.
Tại Việt Nam, người Hà Nhì là một trong số 54 dân tộc và theo điều tra dân số năm 2019, tổng số người Hà Nhì là 25.539 người. Trong khi đó, tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, người Hà Nhì là một trong số 56 dân tộc được công nhận chính thức.
Người Hà Nhì thường sinh sống ở các vùng núi cao, đặc biệt là khu vực đồi núi phía bắc Việt Nam. Trang phục truyền thống của người Hà Nhì rất đặc biệt, phụ nữ thường mặc áo dài đen, có họa tiết hoa văn và đeo những chiếc vòng cổ bằng bạc rất đẹp. Còn đàn ông thì mặc áo dài trắng kết hợp với quần đen.
Người Hà Nhì thường sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi và làm các sản phẩm thủ công như dệt vải, thêu hoa và đan len. Ngoài ra, du lịch cũng đang trở thành một nguồn thu nhập mới cho các bộ tộc Hà Nhì, khi những du khách đến thăm có thể tìm hiểu và trải nghiệm các nét văn hóa truyền thống của họ.
Ở Lào, theo số liệu năm 1985, có 727 người Hà Nhì cư trú. Số dân này chủ yếu là di dân trong thời kì hoạt động của tướng Vàng Pao.
Dân số và địa bàn cư trú của dân tộc Hà Nhì
Tại Việt Nam
Người Hà Nhì là một dân tộc sống ở Đông Nam Á và lân cận bên Trung Quốc. Ở Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, có khoảng 21.725 người Hà Nhì cư trú tại 32 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Hà Nhì cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh Lai Châu, Lào Cai và Điện Biên.
Trong số người Hà Nhì tại Việt Nam, có 3 nhóm địa phương là Cồ Chồ, Là Mi và Hà Nhì Đen. Nhóm người Hà Nhì Đen tập trung ở Y Tý, Lào Cai. Tại Mường Tè (Lai Châu), người Hà Nhì tự chia thành hai nhóm là Hà Nhì Cồ Chồ và Hà Nhì La Mí (gọi chung là Hà Nhì Hoa), căn cứ vào sự khác nhau về y phục, phương ngữ và phong tục tập quán. Nhóm Hà Nhì Cồ Chồ cư trú tập trung ở các bản Xi Né (xã Mù Cả), A Mé (xã Tà Tổng), Nậm Hạ (xã Kan Hồ), Chang Pa Chải (xã Hua Bum). Nhóm Hà Nhì La Mí cư trú tập trung ở các xã Ka Lăng, Thu Lũm và các bản Mù Cả, Ma Ký, Gò Cứ (xã Mù Cả), Nậm Lọ (xã Kan Hồ).
Tại Trung Quốc
Người Hà Nhì là một dân tộc sống ở Đông Nam Á và lân cận bên Trung Quốc. Tại Trung Quốc, khoảng 97% trong tổng số hơn 574.800 người Hà Nhì sống ở tỉnh huyện Kim Bình tỉnh Vân Nam, rải rác quanh dãy núi Ai Lao Sơn, nằm giữa các sông Lan Thương Giang (Mekong) và Nguyên Giang (hay Hồng Hà, tiếng Hà Nhì: Lalsa baqma). Tại đây có huyện tự trị dân tộc Hà Ni, dân tộc Di, dân tộc Thái Nguyên Giang với huyện lị là Nguyên Giang.
Nguồn gốc của dân tộc Hà Nhì
Nguyên thủy của người Hà Nhì vẫn chưa được xác định chính xác, tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy tổ tiên của họ, là tộc người Khương, đã di cư từ vùng cao nguyên Thanh Tạng xuống phía nam từ trước thế kỷ thứ ba.
Theo truyền thuyết của người Hà Nhì, họ có nguồn gốc từ người Di (Yi) và tách khỏi nhau để thành lập các bộ tộc riêng biệt từ khoảng 50 đời trước đây.
Ngôn ngữ của dân tộc Hà Nhì
Tiếng Hà Nhì là một ngôn ngữ thuộc nhánh Di (Yi) trong ngữ tộc Tạng-Miến và thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.
Theo lời truyền miệng của người Hà Nhì, họ từng có một hệ thống chữ viết riêng, nhưng đã bị thất lạc khi di cư từ Tứ Xuyên xuống phía nam. Hiện tại, người Hà Nhì sử dụng chữ cái La-tinh để viết ngôn ngữ của mình.
Tùy vào đặc điểm phân bố dân cư ở các vùng khác nhau, ngôn ngữ Hà Nhì cũng có sự thích nghi và mỗi vùng có đặc trưng ngôn ngữ riêng.
Đặc điểm kinh tế của dân tộc Hà Nhì
Người Hà Nhì chủ yếu trồng lúa, có nơi làm ruộng, có nơi làm nương rẫy. Hà Nhì là một trong những dân tộc có truyền thống khai khẩn ruộng bậc thang và đào mương đắp đập lấy nước, dùng trâu bò cày kéo và làm vườn cạnh nhà. Ngoài ra, chăn nuôi và các nghề thủ công như đan lát, dệt vải cũng rất phổ biến. Phần đông người Hà Nhì tự sản xuất được vải để mặc.
Điều này thể hiện sự khéo léo, năng nổ và sáng tạo trong sản xuất của người Hà Nhì. Ở Việt Nam, người Hà Nhì ở miền núi đã phát triển các kỹ thuật sản xuất đặc thù phù hợp với địa hình và điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Mặc dù ở nơi hẻo lánh nhưng người Hà Nhì vẫn có trình độ phát triển về nhận thức và học vấn hơn các dân tộc khác.
Tổ chức cộng đồng của dân tộc Hà Nhì
Ngày nay, người Hà Nhì đã định cư và thường sống tập trung thành các bản cư trú, mỗi bản có thể có đến 60 hộ. Họ của người Hà Nhì phân chia thành nhiều chi và nhiều dòng họ. Mỗi dịp Tết, cả dòng họ sẽ tụ tập lại để nghe người già kể chuyện về tộc phả của mình. Có những dòng họ có thể nhớ lại được về xưa tới 40 đời. Tên của người Hà Nhì thường được đặt theo tập tục lấy tên của cha hoặc tên của con vật tương ứng với ngày sinh của người đó làm tên đệm.
Văn hóa của dân tộc Hà Nhì
Người Hà Nhì có nhiều lễ hội trong năm, ngoài Tết Nguyên đán và Tết thiếu nhi thì còn có lễ Khu Già Già (tháng 6), lễ Ga Tho Tho (tháng 11). Ngoài ra, còn có một số lễ cúng nhỏ như ăn lúa mới (tháng 8), ăn nếp mới (tháng 9)…
Người Hà Nhì có nhiều truyện cổ và thơ dài. Nam nữ thanh niên có điệu múa riêng, theo nhịp tấu nhạc cụ gõ. Trai gái Hà Nhì tỏ tình thường dùng các loại nhạc cụ như khèn lá, đàn môi, sáo dọc. Các thiếu nữ thích thổi am-ba, mét-du, tuy-húy (huýt sáo) hay nát-xi vào ban đêm. Con trai thường gảy đàn La Khư. Ngày lễ hội còn có trống, thanh la, chập cheng góp vui. Người Hà Nhì có nhiều loại bài hát như bài hát ru của các bà mẹ, bài hát đối của thanh niên nam nữ. Còn có bài hát đám cưới, hát đám ma, hát mừng nhà mới, hát tiếp khách quý, hát trong ngày tết. Ví dụ, bài hát đám cưới của người Hà Nhì ở Mường Tè, Lai Châu, Việt Nam có tới 400 câu.
Ngoài ra, người Hà Nhì còn có nhiều truyền thống văn hóa đặc sắc khác. Trong đó, nổi bật là truyền thống tập quán lễ cúng và cách thức tổ chức đám tang. Họ cũng có truyền thống khai thác và sử dụng các loại cây thuốc, rễ cây, lá cây để chữa bệnh và bồi dưỡng sức khỏe. Các nghề thủ công truyền thống của người Hà Nhì cũng rất phong phú, như dệt vải, đan lát, thêu, tạo hoa.
Các dịp lễ đặc biệt của dân tộc Hà Nhì
Tết truyền thống
Ngày tết truyền thống của người Hà Nhì được gọi là Hồ Sự Chà. Thường diễn ra vào 3 ngày trong tháng con chuột (Hu – Pa – La) của người Hà Nhì ở Mường Tè. Thời điểm này khoảng vào tháng 11 dương lịch, khi mùa màng đã thu hoạch xong và đến lúc ăn tết. Người Hà Nhì tổ chức tết bắt đầu vào ngày rồng, không phân biệt đầu tháng hay cuối tháng, tùy theo từng bản tổ chức sớm hay muộn.
Trước tết, người Hà Nhì thường sửa sang nhà cửa, chuẩn bị đồ ăn như gạo, rượu, thịt lợn, và chuẩn bị nuôi lợn từ đầu năm để tết đến thì mổ. Bánh dầy là loại bánh không thể thiếu trong ngày tết Hồ Sự Chà.
Vào tối ngày 30, người Hà Nhì thắp hương khấn thần bếp, sau đó thắp hương ở tất cả các cửa, ngay cả chuồng trâu, chuồng lợn cũng phải cắm hương. Sau khi cúng xong thần bếp, một phần nhỏ đồ lễ được bỏ ra bát cho chó ăn trước, rồi sau đó người mới được ăn. Truyền thuyết cho rằng, chó từng cứu người Hà Nhì thoát chết đói sau một trận lũ lớn, vì vậy chó được coi là vật cứu tinh trong đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Người Hà Nhì còn có một quan niệm đặc biệt là không ăn thịt ngựa, bởi vì ngựa được coi là bạn đồng hành đã giúp đỡ họ thồ chở hàng. Trong ngày tết, ngựa được ăn cháo và đồ ăn ngon.
Tết thiếu nhi
Sau khoảng 2 tuần kết thúc Tết Nguyên Đán, người Hà Nhì lại chuẩn bị đón Tết thiếu nhi. Ngày tổ chức Tết thiếu nhi thường rơi vào giữa hoặc cuối tháng giêng, tùy thuộc vào cách tính của từng bản.
Tết thiếu nhi là dịp để trẻ em được vui chơi và mặc quần áo mới. Những người già trong gia đình sẽ tặng trứng luộc đã nhuộm màu cho con cháu mừng tuổi. Các trẻ nhỏ từ các bản khác đến chơi cũng sẽ được tặng trứng. Sau Tết thiếu nhi, mỗi gia đình sẽ tiếp tục cúng thần linh và tổ tiên cứ sau 12 ngày một lần, cho đến khi cúng hết 3 lần.
Lễ Gạ ma thú
Hôn nhân gia đình
Trong văn hóa Hà Nhì, việc kết hôn thường được chuẩn bị kỹ lưỡng. Trai gái Hà Nhì thường có cơ hội tìm hiểu nhau trước khi quyết định kết hôn. Dịp tết trai gái, các cặp đôi thường hẹn hò nhau để nhảy dây, hát giao duyên và tìm hiểu nhau hơn.
Nếu hai người cảm thấy hợp nhau sau khi đã tìm hiểu và giao lưu, nhà trai sẽ mang đến nhà gái những món quà như gạo, thịt lợn, gà để xin lấy con về làm dâu. Sau đó, cặp đôi sẽ trải qua hai lần cưới. Lần đầu tiên được gọi là “cưới tay”, trong đó, họ trở thành vợ chồng mặc dù không có lễ cưới trang trọng.
Lần cưới thứ hai thường được tổ chức sau khi hai người đã có con và làm ăn có thu nhập ổn định. Lần cưới này sẽ có các nghi thức trang trọng và phải chuẩn bị kỹ càng. Cũng có một số trường hợp, ở một số khu vực của Lai Châu, người ta thường để rể ở nhà của cô dâu.
Tổ chức hai lần cưới như vậy là để tôn vinh tình yêu và sự chung thủy của đôi uyên ương, cũng như để đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của cả hai bên trong hôn nhân.
Tục lệ ma chay
Phong tục ma chay của các vùng ở Việt Nam không hoàn toàn giống nhau, và phong tục ma chay của người Hà Nhì cũng có một số điểm khác biệt so với các vùng khác.
Khi trong nhà có người chết, người Hà Nhì thường phải dỡ bỏ tấm liếp của buồng người đó và phá bàn thờ tổ tiên. Tử thi sẽ được đặt ở giường trong nhà bếp, sau đó sẽ chọn ngày giờ tốt để chôn.
Khác với một số phong tục khác, người Hà Nhì không có nghĩa địa chung của bản và họ không lấp đất lên mộ. Thay vào đó, họ xếp đá quanh chân mộ và không xây dựng nhà mồ hay rào dậu.
Trang phục của dân tộc Hà Nhì
Phong cách trang phục của người Hà Nhì có nhiều đặc trưng riêng biệt. Phụ nữ thường mặc váy đen, kết hợp với mũ, khăn hai ống tay và nẹp áo được trang trí. Trang trí trên ống tay thường có họa tiết độc đáo, khác biệt với phong cách của các dân tộc khác trong cùng nhóm ngôn ngữ như Lô Lô hay Hmông. Ngoài ra, nam giới thường mặc áo khoác dài và quần dài, thường làm từ vải lanh, có thêu hoa văn phức tạp. Trang phục của người Hà Nhì thường rất sắc màu và đẹp mắt, thể hiện sự tỉ mỉ và tinh tế trong việc trang trí.
Pingback: Danh sách dân tộc Việt Nam - ATI