Dân tộc Giáy còn được biết đến với các tên gọi như Nhắng, Dẳng, Pâu Thìn, Pu Nà, Cùi Chu và Xạ, là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Họ nói tiếng Bố Y, một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Thái trong hệ thống ngôn ngữ Tai-Kadai.
Mục lục
Giới thiệu dân tộc Giáy Việt Nam
Theo điều tra dân số năm 2019, số lượng người Giáy tại Việt Nam là 67.858 người [1]. Điều này đại diện cho một tăng trưởng dân số đáng kể từ năm 2009, khi số lượng người Giáy được ước tính là 58.617 người.
Người Giáy, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, bao gồm Nhắng, Dẳng, Pâu Thìn, Pu Nả, Củi Chu và Xạ. Tùy thuộc vào vùng miền và dân tộc lân cận, người ta có thể sử dụng các tên gọi khác nhau để chỉ tên người Giáy.
Ở Lào Cai, người Giáy gọi chính mình là Pú Dáy và nói một thứ tiếng nhẹ nhàng. Trong khi đó, người Tày gần kề sử dụng từ “Cấn Dẳng” để chỉ người Giáy, trong khi người Kinh gọi họ là “Nhắng”. Các nhánh khác của người Giáy bao gồm Pâu Thìn, Pú Nả và Củi Chu. Người Quan Hỏa địa phương thường gọi người Giáy là “Xa Dìn”.
Tại Việt Nam, người Tày Ngạn tại huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang được xếp vào nhóm dân tộc Tày, trong khi người Nùng An ở huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng được xếp vào dân tộc Nùng. Tuy nhiên, hai nhóm này sử dụng ngôn ngữ rất gần với tiếng Giáy.
Người Pú Nả, hay còn gọi là Củi Chu, sinh sống ở các bản Séo Sin Chải, Lò Suối Tủng, Phan Lìn, Nùng Than xã San Thàng, thị xã Lai Châu, có nguồn gốc từ tỉnh Quý Châu Trung Quốc và di cư về Việt Nam từ 150 đến 200 năm trước. Người Pú Nả mặc trang phục giống như người Giáy và sử dụng các hình thức văn hóa truyền thống như hát, thơ ca, đồng dao và tục ngữ như người Giáy, tuy nhiên, tiếng Pú Nả không được người Giáy hiểu.
Dân số và địa bàn cư trú dân tộc Giáy
Người Giáy có địa bàn cư trú chủ yếu tại các tỉnh Lào Cai (50%), Hà Giang (27%), Lai Châu (18%) và Yên Bái (4%). Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, dân số người Giáy ở Việt Nam theo điều tra dân số năm 2009 là 58.617 người. Họ cư trú tại 39 tỉnh và thành phố trên toàn quốc, trong đó có các tỉnh tập trung đông người Giáy như
- Lào Cai (28.606 người, chiếm 48,8% tổng số người Giáy tại Việt Nam)
- Hà Giang (15.157 người, chiếm 25,9% tổng số người Giáy tại Việt Nam)
- Lai Châu (11.334 người)
- Yên Bái (2.329 người)
Đặc điểm kinh tế dân tộc Giáy
Về nền kinh tế, người Giáy chủ yếu làm ruộng nước và nông nghiệp là ngành chính. Các rẫy chỉ là nguồn thu nhập phụ, thường dùng để chăn nuôi lợn, gà. Họ nuôi nhiều trâu, ngựa, lợn, gà, vịt và có truyền thống dùng ngựa để cưỡi, thồ, dùng trâu kéo cày, kéo gỗ.
Văn hóa dân tộc Giáy
Người Giáy có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, câu đố, đồng dao và nhiều tài liệu văn học khác. Có nhiều truyện giải thích hiện tượng tự nhiên, cùng với nhiều truyện thơ dài và truyện kết hợp lời kể với lời hát. Dân ca phong phú, gồm nhiều loại, mỗi loại có nhiều bài, điệu khác nhau, đặc biệt các hình thức hát giao duyên nam nữ được coi là sinh hoạt sôi nổi và hấp dẫn.
Phong tục, tín ngưỡng dân tộc Giáy
1. Đón Tết
Người Giáy cũng ăn tết theo âm lịch, trùng với Tết Nguyên Đán. Mỗi năm, trước ngày tết, người Giáy làm các món bánh truyền thống như bánh bổng, bánh khảo để cúng bàn thờ tổ tiên và ăn trong những ngày đầu năm mới.
Từ chiều 30 tết, mọi người tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo mới chuẩn bị đón tết. Hương, nến được thắp lên và giữ liên tục không được tắt cho đến lúc lễ hóa vàng xong. Như nhiều dân tộc khác, người Giáy có tục đón linh hồn tổ tiên về trước giao thừa và cúng lễ hóa vàng (những vật phẩm cúng lễ bằng giấy như quần áo, tiền, vàng mã được đốt đi) để tiễn ông bà về trời. Tuy nhiên, người Giáy có nhiều dòng họ khác nhau, lễ hóa vàng của mỗi dòng họ cũng có sự khác biệt. Chẳng hạn họ Vương (Vàng) và một số họ khác làm lễ hóa vàng vào chiều mùng 1 tháng Giêng, trong khi người họ Sầm (Sần) thì phải đến tận ngày mùng 3.
2. Lễ xuống đồng
Lễ xuống đồng là một trong những ngày lễ truyền thống của người Giáy, đánh dấu bắt đầu cho mùa vụ mới. Đây là ngày lễ quan trọng nhất trong năm, được tổ chức vào ngày Thìn – tức là Rồng trong lịch âm, với hy vọng rồng sẽ phun mưa cho ruộng lúa tốt tươi và không bị hạn hán.
Ngày xưa, lễ xuống đồng được tổ chức ngoài ruộng, mỗi gia đình trong thôn sẽ sắm sửa một mâm cúng gồm thịt lợn, gà, bánh khảo, bánh bổng và hương hoa mang ra đặt ngoài đồng, nơi tổ chức lễ. Mọi người cùng thắp hương khấn vái cầu cho năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Ngày nay, lễ xuống đồng có sự tham gia của chính quyền địa phương.
Một trong những nghi thức truyền thống không thể thiếu trong lễ xuống đồng của người dân tộc Giáy là nghi thức “ném còn”. Trong khoảng một tuần trước Tết, người dân trong thôn phân công nhau để làm những quả còn bằng vải, được bọc bên trong bằng cát, to bằng nắm tay, có dây dài khoảng 80 cm, được trang trí bởi nhiều màu sắc. Ngoài ra, một cây tre thẳng, cao khoảng 14m cũng được chuẩn bị trước Tết để mang ra đồng để dựng làm cây nêu. Trên ngọn cây treo một vòng còn hình tròn rộng khoảng 1m, giữa vòng còn là lỗ còn rộng gần 1 gang tay được dán bằng giấy, với một mặt màu đỏ tượng trưng cho mặt trời, mặt kia màu trắng (hoặc xanh) tượng trưng cho mặt trăng.
Sau phần cúng mâm lễ, đến lượt nghi thức “ném còn”. Những người tham gia sẽ chia làm hai bên và đứng ở mỗi bên của vòng còn. Mỗi người sẽ cầm quả còn và ném vào hướng lỗ còn sao cho quả còn có thể xuyên thủng lỗ còn. Người từ bên kia cũng sẽ ném theo hướng ngược lại. Khi lỗ còn bị quả còn xuyên thủng thì nghi thức ném còn kết thúc. Quả còn may mắn xuyên thủng lỗ còn sẽ được người dân nhặt và đem về đặt trong hũ gạo với niềm tin rằng nó sẽ mang lại sự giàu có, no ấm cho gia đình. Tuy nhiên, nghi thức ném còn không chỉ đơn thuần là một trò chơi thử thách kỹ năng, độ chính xác của người chơi mà còn là một nghi thức mang ý nghĩa phong phú. Việc quả còn xuyên qua lỗ còn tượng trưng cho sự giao hợp giữa nam và nữ, thể hiện sự cân bằng giữa yin và yang, với mong muốn mang lại sự tốt lành và may mắn cho gia đình. Vì vậy, quả còn sẽ được tung lên cho đến khi nó xuyên thủng được lỗ còn mới thôi. Nếu ném tất cả các quả còn mà lỗ còn vẫn chưa thủng, người ta phải buộc dây vào hòn đá thay quả còn, thậm chí dùng súng bắn.
3. Hôn nhân gia đình
Trong văn hóa truyền thống của người Giáy, hôn nhân và gia đình đóng vai trò quan trọng. Vị thế nổi bật trong gia đình là người chồng và người cha. Con cái thường lấy họ theo cha. Trong trường hợp này, nhà trai sẽ chủ động trong việc cầu hôn và sau khi kết hôn, cô dâu sẽ về ở chung với gia đình nhà chồng. Tuy nhiên, việc ở rể cũng là phổ biến.
Trước đây, người Giáy có tục “kéo vợ”. Điều này xảy ra khi cô gái và gia đình cô đồng ý kết hôn nhưng nhà trai không đủ tiền để tổ chức lễ cưới đàng hoàng. Chàng trai sẽ phải tổ chức “kéo vợ” để đưa cô gái về nhà của mình.
Phụ nữ Giáy khi mang thai thường phải kiêng cữ và cúng cầu mong sinh nở yên lành. Sau khi đứa bé được đưa ra đời, có lễ trình báo với tổ tiên và cầu xin sự phù hộ của tổ tiên. Thầy cúng sẽ ghi tên, ngày tháng năm sinh của em bé lên một miếng vải đỏ. Thông tin này sẽ được sử dụng để tính tuổi cho các hoạt động như cầu hôn, xây nhà hoặc đám tang trong tương lai.
4. Nhà cửa dân tộc Giáy
Nhóm người Giáy ở vùng Hà Giang, Cao Bằng thường xây nhà sàn, trong khi đó nhóm người Giáy ở vùng Lào Cai, Lai Châu lại xây nhà đất. Tuy nhiên, theo tài liệu văn học dân gian thì người Giáy truyền thống ở nhà sàn. Hiện nay, nhiều người Giáy ở nhà đất vẫn giữ lại một sàn trước cửa để sử dụng. Cho dù ở nhà sàn hay nhà đất, gian giữa nhà luôn được coi là nơi trang nghiêm, đặt bàn thờ tổ tiên và tiếp khách. Các phòng ngủ của cặp vợ chồng trong gia đình được đặt ở các gian bên. Phụ nữ thường không ngủ ở gian giữa. Bếp thường được đặt ở gian bên, tuy nhiên ngày nay nhiều gia đình đã có nhà bếp riêng để đun nấu.
5. Trang phục dân tộc Giáy
Trang phục truyền thống của người Giáy tập trung chủ yếu vào trang phục nữ, với loại áo ngắn xẻ nách viền cổ trang trí đậm nét. Một số tộc người ở miền Bắc nước ta cũng mặc loại áo xẻ nách (thường là áo dài), tuy nhiên loại áo ngắn truyền thống của người Giáy không nhiều như áo xẻ nách. Tuy không quá cầu kỳ, nhưng loại áo ngắn này có kỹ thuật “xẻ nách” và phong cách trang trí đường viền cổ riêng biệt, tạo nên một sắc thái đặc trưng về kỹ thuật và mỹ thuật.
- Trang phục nam: Nam giới thường mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, đứng và cài cúc bằng vải. Áo thường có ba túi, hai túi dưới và một túi trên bên phải. Thân áo hơi ngắn, màu chàm. Quần ống đứng rộng khoảng 35-40 cm, có cạp to bản và không dùng dây cút mà chỉ vận vào người. Trước đây, nam giới thường quấn khăn trên đầu. Một số nhóm nam cũng mặc áo xẻ nách.
- Trang phục nữ: Phụ nữ Giáy phổ biến mặc loại áo ngắn xẻ nách, một loại áo ngắn trùm kín mông, xẻ nách phải, ống tay rộng. Cổ áo được trang trí với đường viền xẻ nách từ vai trái sang phải, viền và trang trí với vải khác màu (thường là tương phản với nền áo) ở hai vai, giữa cánh tay và cửa tay. Có một số loại áo như trên nhưng lại để chàm hoặc trắng nguyên không trang trí. Áo mặc trong là loại áo cánh ngắn cộc tay, xẻ ngực, cổ tròn thấp và có hai túi dưới. Áo xẻ nách cài cúc vải được tết cẩn thận với nhiều loại đẹp mắt. Phụ nữ Giáy thường đội khăn quấn thành nhiều kiểu khác nhau, cổ đeo vòng bạc. Nhóm Giáy Lào Cai, Lai Châu thường mặc quần chàm ngắn đến mắt cá chân, ống rộng. Tóc được vấn theo kiểu vành khăn và thường đeo túi vải thêu hoa văn phổ biến ở đáy túi là hình răng chó. Phổ biến đi loại giày vải thêu hoa văn nhiều loại.
Pingback: Danh sách dân tộc Việt Nam - ATI