Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc của Việt Nam, chủ yếu sinh sống ở các vùng núi và vùng cao nguyên miền Bắc. Theo thống kê của chính phủ Việt Nam năm 2019, dân tộc Dao có khoảng 891.151 người.
Mục lục
- Giới thiệu dân tộc Dao Việt Nam
- Nguồn gốc lịch sử dân tộc Dao
- Dân số và địa bàn cư trú dân tộc Dao
- Các nhóm và ngôn ngữ dân tộc Dao
- Đặc điểm văn hóa, phong tục dân tộc Dao
- Nhà ở dân tộc Dao
- Trang phục dân tộc Dao
- Ẩm thực dân tộc Dao
- Lế Tết dân tộc Dao
- Tín ngưỡng dân tộc Dao
- Tình hình kinh tế dân tộc Dao
- Điều kiện giáo dục dân tộc Dao
Giới thiệu dân tộc Dao Việt Nam
Người Dao là một dân tộc có địa bàn cư trú truyền thống ở phía nam Trung Quốc và lân cận ở bắc phần tiểu vùng Đông Nam Á, còn được gọi bằng các tên gọi khác như Dìu Miền, Miền, Lù Gang, Làn Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu.
Ở Trung Quốc, người Dao là một trong 56 dân tộc thiểu số được công nhận với dân số là 2.637.000 người. Ngoài Trung Quốc, người Dao cũng là một dân tộc thiểu số ở Lào, Myanmar, Thái Lan.
Tại Việt Nam, người Dao là một trong số 54 dân tộc, với dân số là 891.151 người năm 2019 [1]. Họ có các bản làng trải rộng tại các miền rừng núi phía Bắc (Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Tuyên Quang,…) đến một số tỉnh trung du như Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Hà Nội và miền biển Quảng Ninh (người Dao Thanh Y) [2].
Người Dao được chia thành nhiều nhóm khác nhau, với những nét riêng về phong tục tập quán được thể hiện rõ rệt nhất trên trang phục của họ, ví dụ như Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Y, Dao Áo dài, Dao Quần Trắng. Mặc dù, họ còn nhiều nhóm người khác nhau.
Nguồn gốc lịch sử dân tộc Dao
Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc và việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Có nhiều nhóm dân tộc Dao khác nhau như:
- Dao Đỏ (bao gồm các phân nhánh Dao Cóc Ngáng, Dao Sừng, Dao Dụ Lạy, Dao Đại Bản)
- Dao Quần Chẹt (bao gồm các phân nhánh Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng, Dụ Cùn)
- Dao Lô Gang (bao gồm các phân nhánh Dao Thanh Phán, Dao Cóc Mùn)
- Dao Tiền (bao gồm các phân nhánh Dao Đeo Tiền, Dao Tiểu Bản)
- Dao Quần Trắng (bao gồm phân nhánh Dao Họ)
- Dao Thanh Y
- Dao Làn Tẻn (bao gồm các phân nhánh Dao Tuyển, Dao Áo Dài)
Ngoài ra, các nhóm Dao còn có nhiều tên gọi khác nhau như: Kềm Miền, Kiềm Miền, Kìm Mùn, Kìm Mần, Bièo Mùn, Liào Mần, Dù Miền, Dìu Miền, Yìu Miền. Trước đây, họ còn được gọi là Động, Xá, Mán.
Dân số và địa bàn cư trú dân tộc Dao
Theo kết quả điều tra thu thập thông tin về tình trạng kinh tế xã hội của 54 dân tộc thiểu số năm 2019 của Ủy ban Dân tộc Việt Nam – Tổng cục Thống kê, dân số người Dao tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019 là khoảng 891.151 người, trong đó có 450.089 nam và 441.062 nữ.
Họ cư trú tại 61 tỉnh, thành phố trên tổng số 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Tuy nhiên, họ tập trung nhiều nhất tại các tỉnh miền núi phía bắc và trung du Bắc Bộ, cụ thể:
- Hà Giang: 127.181 người, chiếm 15,1% dân số toàn tỉnh và 14,6% tổng số người Dao tại Việt Nam
- Lào Cai: 108.326 người, chiếm 14,4% dân số toàn tỉnh và 11,8% tổng số người Dao tại Việt Nam
- Tuyên Quang: 105.359 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 12,1% tổng số người Dao tại Việt Nam
- Yên Bái: 101.223 người, chiếm 11,3% dân số toàn tỉnh và 11,2% tổng số người Dao tại Việt Nam
- Quảng Ninh: 73.591 người, chiếm 5,2% dân số toàn tỉnh
- Lai Châu: 58.849 người, chiếm 13,2% dân số toàn tỉnh
- Bắc Kạn: 56.067 người, chiếm 17,6% dân số toàn tỉnh
- Cao Bằng: 54.947 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh
- Thái Nguyên: 32.370 người
- Lạng Sơn: 28.225 người
- Sơn La: 21.995 người
- Đắk Nông: 19.786 người
- Đắk Lắk: 17.479 người
- Hòa Bình: 17.248 người
- Phú Thọ: 15.702 người
- Bắc Giang: 12.379 người.
Các nhóm và ngôn ngữ dân tộc Dao
Có nhiều nhóm khác nhau trong dân tộc Dao và họ nói các ngôn ngữ thuộc các hệ ngôn ngữ khác nhau. Các hệ ngôn ngữ đó bao gồm:
Hệ ngôn ngữ H’Mông-Miền (Miêu-Dao):
- Người Miền nói các thứ tiếng Miền (tiếng Trung: 勉語/勉语, Hán-Việt: Miễn ngữ), bao gồm các ngôn ngữ sau:
- Tiếng Dìu Miền (Ưu Miền), khoảng 818.685 người (trong đó có 383.000 người ở Trung Quốc, 350.000 người ở Việt Nam, 40.000 người ở Thái Lan, 20.250 người ở Lào và 70.000 người ở Hoa Kỳ).
- Tiếng Kim Môn (còn gọi là tiếng Dao đồng bằng, tiếng Làn Tẻn, tiếng Lam Điện), hơn 300.000 người Dao.
- Phương ngữ Phiêu Man, 20.000 người.
- Phương ngữ Tảo Mẫn, 60.000 người.
- Tiếng Miền Phiêu-Giao, 43.000 người.
- Tiếng H’Mông (hay tiếng Miêu):
- Tiếng Bố Nỗ, 258.000 người.
- Phương ngữ Ngô Nại, 18.442 người.
- Phương ngữ Ưu Nặc, 9.716 người.
- Phương ngữ Huỳnh Nại, 1.078 người, còn được biết đến như là “Hoa Lam Dao”.
- Một số nhà ngôn ngữ học gộp nhóm các ngôn ngữ trên – với tổng cộng trên 287.000 người – cùng nhau như là các phương ngữ của tiếng Bố Nỗ.
Hệ ngôn ngữ Tai-Kadai:
- Tiếng Lạp Già (拉珈語/拉珈语), 12.000 người.
Hệ ngôn ngữ Trung Quốc:
- Khoảng 500.000 người Dao nói các phương ngữ của tiếng Trung.
Đặc điểm văn hóa, phong tục dân tộc Dao
Nhà ở dân tộc Dao
Người Dao cư trú chủ yếu tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam và gần đây mới có một số nhỏ chuyển vào Tây Nguyên. Tuy nhiên, dù cư trú phân tán và có nhiều nhóm Dao khác nhau như Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao quần trắng,… chúng ta vẫn có thể nhận ra nét đặc trưng về nhà ở của tộc người này.
Về cơ bản, người Dao có ba loại hình nhà ở chính là nhà đất, nhà sàn (người Dao quần trắng ở Yên Bái) và nhà nửa sàn nửa đất (người Dao đỏ ở Tả Phìn – Sa Pa, Lào Cai). Tuy nhiên, với sự phát triển chung của xã hội, những nét đặc trưng này đang phai nhạt dần, đặc biệt là từ sau năm 1945.
Để tìm hiểu quá trình phát triển nhà ở của dân tộc Dao cũng như nhiều dân tộc khác ở Việt Nam, người ta đặc biệt quan tâm đến kết cấu của bộ khung nhà. Bộ khung nhà của người Dao thường là các kiểu vì (vì cột, vì trung gian giữa vì kèo – vì cột và vì kèo). Ngoài ra, một yếu tố khác vô cùng quan trọng trong kiến trúc nhà ở của người Dao là tổ chức mặt bằng sinh hoạt.
Do sự khác biệt giữa nhà ở của các dân tộc chủ yếu ở hai yếu tố trên, còn yếu tố khác chỉ là thứ yếu.
Cấu trúc gia đình: Phụ hệ
Trang phục dân tộc Dao
Trang phục truyền thống của người Dao có nhiều đặc điểm độc đáo. Trước đây, đàn ông thường để tóc dài và buội phía sau gáy hoặc chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh được cạo nhẵn. Ngoài ra, các nhóm Dao cũng có cách đội khăn khác nhau để tạo nên phong cách riêng. Về áo, người Dao có hai loại áo truyền thống là áo dài và áo ngắn.
Phụ nữ Dao mặc đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục rất sặc sỡ với các hoa văn được thêu trên vải bằng sáp ong. Họ thêu hoàn toàn dựa vào trí nhớ trên mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn màu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.
Đàn ông Dao truyền thống thường để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. Áo truyền thống của người Dao có hai loại, áo dài và áo ngắn.
Ẩm thực dân tộc Dao
Trong ẩm thực, người Dao ăn cơm là chính, tuy nhiên ở một số nơi, họ ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc cháo. Họ còn thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua và canh măng chua.
Lế Tết dân tộc Dao
Lễ tết của người Dao diễn ra vào tháng Giêng với các nghi lễ cúng tổ tiên vào tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Chạp. Tùy vào từng nhóm Dao, lại có những ngày cúng tổ tiên riêng. Ngoài các ngày lễ trọng đại, người Dao còn tổ chức các nghi lễ vòng đời như lễ cấp sắc, cưới xin, tang ma, cầu sức khỏe và cúng ma.
Tín ngưỡng dân tộc Dao
Người Dao tin theo nhiều tín ngưỡng khác nhau, bao gồm các tín ngưỡng nguyên thủy, các nghi lễ nông nghiệp và đặc biệt là Khổng giáo, Phật giáo và Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao và được cúng chung với tổ tiên của mỗi gia đình. Truyền thống yêu cầu tất cả đàn ông đã đến độ tuổi trưởng thành phải tham gia lễ cấp sắc, một nghi lễ kết hợp giữa các yếu tố Ðạo giáo và lễ thành đinh truyền thống xa xưa.
Người Dao có đặc điểm tín ngưỡng đa thần. Trong gia đình, họ thường thờ cúng ông bà, cha mẹ, ma bếp lò, ma thổ địa… Trong dòng họ, chi họ hoặc tông tộc, họ thờ cúng ma dòng họ. Trên phạm vi cộng đồng làng bản, họ cúng thần phù hộ và thổ thần của bản, cũng như cúng cầu mưa hoặc cầu nắng, cúng diệt trừ sâu bọ… Ngoài ra, trước đây, người Dao còn thực hiện nghi lễ cúng ma ruộng, ma nương, ma nước nguồn.
Tình hình kinh tế dân tộc Dao
Người Dao sinh sống và phát triển chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp và chăn nuôi. Họ canh tác trên nương, thổ canh hốc đá, ruộng, tuỳ thuộc vào từng nhóm và vùng miền. Lúa và ngô là hai loại cây lương thực chính mà người Dao trồng. Ngoài ra, họ còn trồng các loại rau màu để bổ sung dinh dưỡng cho thực đơn gia đình. Với vùng lưng chừng núi và vùng cao, người Dao chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà và còn nuôi ngựa, dê.
Bên cạnh đó, người Dao còn có nhiều nghề khác như trồng bông, dệt vải, sửa chữa nông cụ, làm súng hỏa mai, súng kíp, đúc đạn bằng gang, làm bạc, làm giấy bản, ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, làm đường mật. Tuy nhiên, những nghề này chỉ chiếm một phần nhỏ trong đời sống kinh tế của người Dao.
Theo báo cáo “Đặc điểm cơ bản của dân tộc thiểu số năm 2019” của Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê, người Dao đang phải đối mặt với nhiều thách thức kinh tế và xã hội, bao gồm tỷ lệ hộ nghèo là 31,0%, tỷ lệ hộ cận nghèo là 15,7%, tỷ lệ thất nghiệp là 1,21%. Tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ là 5,4%, và tỷ trọng lao động trong khu vực phi nông nghiệp là 13,6%. Ngoài ra, chỉ có 1,6% lao động đang làm công việc quản lý hoặc công việc kỹ thuật cao, và tỷ lệ hộ làm nghề thủ công truyền thống là 0,27%.
Điều kiện giáo dục dân tộc Dao
Theo “Đặc trưng cơ bản của 54 dân tộc thiểu số năm 2019” của Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê, người Dao có điều kiện giáo dục như sau: tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 73,8%; tỷ lệ người đi học chung cấp tiểu học là 101,4%; tỷ lệ người đi học chung cấp trung học cơ sở là 89,3%; tỷ lệ người đi học chung cấp trung học phổ thông là 38,9%; tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường là 16,5%.
Pingback: Danh sách dân tộc Việt Nam - ATI