Dân tộc Cống là một trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam, họ sinh sống chủ yếu ở vùng ven sông Đà tỉnh Lai Châu
Mục lục
Giới thiệu về dân tộc Cống Việt Nam
Người Cống (còn gọi là Xắm Khống, Mông Nhé, Xá Xeng) là một dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng đất bao gồm bắc Lào, tây bắc Việt Nam và bắc Thái Lan, với tổng số dân khoảng 40.000 người. Ở Thái-Lào, dân tộc này được gọi là Phu Noi (tiếng Thái: ผู้น้อย; tiếng Lào: ຜູ້ນ້ອຍ).
Tại Việt Nam, người Cống là một trong 54 dân tộc được chính thức công nhận. Họ chủ yếu cư trú ở huyện Mường Tè và khu vực ven sông Đà thuộc tỉnh Lai Châu.
Người Cống sử dụng ngôn ngữ Cống, một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng.
Dân số và địa bàn cư trú của người Cống
Theo thống kê năm 2019, dân số người Cống tại Việt Nam là 2.729 người [1], tăng so với con số 1.676 người vào năm 1999.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tại Việt Nam, người Cống có tổng số 2.029 người, sinh sống tại 13 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Trong đó, người Cống tập trung chủ yếu ở các tỉnh Lai Châu (1.134 người, chiếm 55,9% tổng số người Cống tại Việt Nam) và Điện Biên (871 người, chiếm 42,9% tổng số người Cống tại Việt Nam), còn lại 24 người sinh sống tại các tỉnh, thành khác.
Ở Điện Biên, theo số liệu điều tra năm 2009, toàn tỉnh có 184 hộ với 923 nhân khẩu người Cống sinh sống tại các bản: Púng Bon, Huổi Moi thuộc xã Pa Thơm, huyện Điện Biên; Bản Lả Chà, xã Pa Tần, huyện Nậm Pồ; bản Nậm Kè, xã Nậm Kè, huyện Mường Nhé.
Ở Lai Châu, người Cống sinh sống chủ yếu tại xã Nậm Khao, huyện Mường Tè. Ở Lào, họ sống tại tỉnh Phôngsali (xung quanh thị trấn Phôngsali), tỉnh Luangnamtha và tỉnh Houaphanh. Một số cũng sinh sống tại tỉnh Luang Phrabang và tỉnh Viêng Chăn, phần còn lại của những người phục vụ trong Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào.
Đặc điểm kinh tế của người Cống
Người Cống chủ yếu sống bằng nghề canh tác đất đai theo phương pháp phát triển rừng, đốt cháy đất và trồng cây. Gần đây, họ đã bắt đầu sử dụng cuốc và sức kéo của trâu, bò để làm việc trên đất. Người Cống thường tìm kiếm thức ăn trong rừng, bắt cá dưới suối chủ yếu bằng tay hoặc bằng cách dùng thuốc độc để gây mê cá.
Phụ nữ người Cống không biết cách dệt vải, thay vào đó, họ trồng bông để đổi lấy vải. Tuy nhiên, cả nam và nữ đều có tay nghề đan lát tốt, đặc biệt là đan chiếu từ mây nhuộm đỏ.
Tổ chức cộng đồng của người Cống
Mỗi họ của người Cống có một người đứng đầu là trưởng họ. Họ có chung một quy tắc và kiêng cữ về việc đặt bàn thờ tổ tiên và cách cúng bái. Trong từng gia đình, người chồng hoặc người cha đóng vai trò đứng đầu, khi người cha mất thì con trai cả sẽ thay thế.
Hôn nhân và gia đình
Người Cống trước đây chỉ lấy nhau trong cùng họ, nhưng hiện nay, có một số người lấy vợ hoặc chồng từ các dân tộc khác như người Thái, Hà Nhì, v.v. Theo phong tục của họ, người cùng họ phải cách nhau bảy đời mới được phép kết hôn. Việc xin cưới là do gia đình của người trai chủ động. Sau khi đám hỏi, chàng trai bắt đầu sống với gia đình của cô gái vài năm, còn cô gái bắt đầu tết tóc lên đỉnh đầu, đó là dấu hiệu cho thấy cô đã có chồng. Thường thì họ sinh vài đứa con sau khi kết hôn. Gia đình của người trai phải trả bạc trắng để tổ chức lễ cưới và đưa cho gia đình của người gái. Gia đình của người gái phải cho của hồi môn để cô dâu đem về nhà chồng. Ngay sau đám cưới, đôi vợ chồng mới cưới sẽ đến nhà bố mẹ của cô dâu để tổ chức lễ chào mặt.
Văn hóa
Văn hóa dân gian của người Cống khá đa dạng và phong phú. Họ có nhiều bài hát dân ca sâu sắc, thường được hát vào các dịp lễ hội.
Nhà cửa
Người Cống thường sống trong nhà sàn, với mỗi căn nhà được ngăn ra thành 3-4 gian, trong đó gian giữa là nơi tiếp khách. Căn nhà có một cửa ra vào ở đầu hồi và một cửa sổ ở gian giữa.
Trang phục
Trang phục truyền thống của người Cống chủ yếu phản ánh qua trang phục nữ. Các chi tiết trang trí trên ống tay áo giống như của người Hà Nhì. Cổ áo giống như của người Việt Mường, và chi tiết cúc áo giống như phong cách của người Môn-Khmer. Đối với nữ giới, trang phục truyền thống của họ thường là váy đen và khăn đen không có trang trí.
Pingback: Danh sách dân tộc Việt Nam - ATI