Giới thiệu dân tộc Bố Y Việt Nam

Dân tộc Bố Y là một trong những dân tộc thiểu số của Việt Nam, sinh sống chủ yếu tại các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái. Theo thống kê dân số năm 2019, số lượng người Bố Y ở Việt Nam khoảng 3.232 người.

Giới thiệu dân tộc Bố Y Việt Nam

Giới thiệu dân tộc Bố Y Việt Nam

Người Bố Y hay còn gọi là Bội, Pa Dí, Chủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu Dìn hay Pu Nà là một trong 54 dân tộc của Việt Nam, với số lượng dân số ước tính khoảng 3.232 người theo điều tra dân số năm 2019, phân bố chủ yếu tại các huyện biên giới ở các tỉnh Lào Cai và Hà Giang. Bố Y cũng là một trong những dân tộc cư trú ở các tỉnh Quý Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên tại Trung Quốc.

Ngôn ngữ chính của người Bố Y là tiếng Bố Y, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái trong ngữ hệ Tai-Kadai. Mặc dù được công nhận như là một dân tộc riêng rẽ tại cả Trung Quốc và Việt Nam, nhưng chính họ lại tự coi mình là người Tráng.

Nguồn gốc lịch sử dân tộc Bố Y

Theo nguồn gốc lịch sử, người Bố Y có tổ tiên là một chi của người Lạc Việt trong khối Bách Việt. Người Bố Y có nhiều tên gọi khác nhau như Bố Y, Bố Trọng, Bố Man và Liêu, Trọng Gia, Lý Liêu, Di Liêu từ thời cổ đại.

Trước đây, họ từng là người Tráng (hay còn gọi là người Choang) của vùng bình nguyên Quý Châu, một trong số các dân tộc cổ đại nhất tại Trung Quốc, sinh sống trong khu vực này đã trên 2.000 năm. Tuy nhiên, từ khoảng năm 900 trở đi, sự khác biệt giữa người Bố Y và người Tráng ngày càng trở lên nhiều hơn, và hai nhóm sắc tộc này đã thực sự trở thành 2 dân tộc khác biệt.

Vào thời kỳ nhà Thanh, hệ thống các thủ lĩnh địa phương bị hủy bỏ và các quan chức triều đình tại địa phương kiêm quản cả quân đội đã được bổ nhiệm để cai trị khu vực. Việc này đã tạo ra sự thay đổi trong kinh tế khu vực và đất đai nằm trong tay của một số ít chủ đất, gây ra sự nổi dậy của dân chúng. Trong cuộc khởi nghĩa Nam Lãng năm 1797, người Bố Y bị đàn áp nặng nề và nhiều người phải di cư sang Việt Nam để tránh bị trừng phạt.

Hiện nay, tộc danh Bố Y ở Việt Nam chỉ bao gồm hai nhóm là nhóm Bố Y (tên tự gọi là Pu Y) sinh sống tại tỉnh Hà Giang và nhóm Tu Dí ở tỉnh Lào Cai. Cả hai nhóm đều có nền văn hóa đặc trưng và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam.

Dân số và địa bàn cư trú dân tộc Bố Y

Theo số liệu của cuộc điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân tộc Bố Y tại Việt Nam có tổng dân số là 3.232 người, trong đó có 1.695 nam và 1.537 nữ.

Nhóm Bố Y tại Việt Nam hiện nay chủ yếu sinh sống tại tỉnh Hà Giang, theo đường sông Nhiệm và sông Nho Quế vào cư trú ở một số xã thuộc huyện Đồng Văn và Quản Bạ.

Ngôn ngữ dân tộc Bố Y

Người Bố Y sử dụng tiếng Bố Y, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Tiếng Bố Y rất gần gũi với tiếng Tráng và có sự liên tục phương ngôn giữa hai thứ tiếng này. Tiếng Bố Y có hệ thống chữ viết riêng, được các nhà ngôn ngữ tạo ra trong những năm 1950 dựa trên bảng chữ cái La tinh và với các quy tắc phát âm tương tự như hệ thống bính âm được đặt ra cho tiếng Trung khi La tinh hóa.

Tình hình giáo dục của dân tộc Bố Y

Dựa vào số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tình hình giáo dục của dân tộc Bố Y như sau:

  • Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 80,0%.
  • Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp tiểu học chiếm 100,6%.
  • Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học cơ sở là 96,1%.
  • Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học phổ thông là 72,6%.
  • Tỷ lệ trẻ em ngoài trường là 7,8%.

Đặc điểm văn hóa, phong tục của dân tộc Bố Y

Một điệu múa truyền thống của người Bố Y
Một điệu múa truyền thống của người Bố Y

Thiết chế xã hội truyền thống 

Dưới thời phong kiến, người Bố Y được xem là tầng lớp thấp hơn, và bị quản lý bởi các quan lý như lý trưởng, chánh tổng và phó tổng, đều là người Nùng. Dưới thời Pháp thuộc, Quản Bạ có 2 đơn vị hành chính là Đại Miên và Tiểu Miên. Vùng người Bố Y sinh sống thuộc Tiểu Miên do người Tày làm chánh tổng, phó tổng là người Hmông và người Dao. Dưới tổng là các làng, đứng đầu các làng là Páo tả mua, thường là thầy cúng biết chữ Nho, có uy tín và am hiểu phong tục, tập quán, và giữ trọng trách này.

Tôn giáo và tín ngưỡng

Mỗi dân tộc đều có hệ thống tín niệm riêng về vũ trụ và linh hồn, và người Bố Y cũng không ngoại lệ. Theo quan niệm của người Bố Y, vũ trụ được chia thành ba tầng, theo trục dọc: tầng trung tâm là trần gian, nơi con người sinh sống, phía trên trần gian là nơi trú ngụ của thần linh, và dưới cùng là mường của những người tí hon (pầu cúng kính) sống trong lòng đất.

Hôn nhân gia đình

Nghi lễ trong đám cưới của người Bố Y
Nghi lễ trong đám cưới của người Bố Y

Lễ cưới của người Bố Y thường rất trang trọng và đắt đỏ.

Trong lễ đón dâu, thường nhà trai chỉ có khoảng 8 đến 10 người, trong đó phải có 1 đến 2 đôi còn son trẻ, 2 đôi đã có vợ có chồng. Nét độc đáo của người Bố Y là chàng rể không đi đón dâu, mà thay vào đó là em gái của chàng rể dắt con ngựa hồng đẹp mã để chị dâu cưỡi lúc về nhà chồng. Nhà gái cũng cử ra một đoàn, thành phần tương tự nhà trai. Khi về nhà chồng, cô dâu mang theo một chiếc kéo và một con gà mái nhỏ, đi đến giữa đường thì thả gà vào rừng.

Trong quá khứ, phụ nữ Bố Y có tục đẻ ngồi, và nhau của đứa trẻ được chôn dưới gầm giường của mẹ. Khi bố mẹ chết, con cái phải kiêng kỵ và nghiêm ngặt trong 90 ngày đối với tang mẹ và 120 ngày đối với tang cha.

Nhà ở dân tộc Bố Y

Nhà ở dân tộc Bố Y

Người Bố Y là cư dân nông nghiệp chủ yếu làm ruộng nước. Khi chọn đất để xây nhà, họ thường chọn những nơi gần nguồn nước để tiện cho việc sinh hoạt và canh tác. Thông thường, người Bố Y chọn đất bằng phẳng, rộng khoảng 40-50m2 và thực hiện lễ cúng thổ địa trên nền đất đó để cầu mong ngôi nhà sắp xây sẽ bền vững và gia đình có cuộc sống sung túc.

Trang phục dân tộc Bố Y

Trang phục dân tộc Bố Y

Về trang phục, nam giới thường mặc áo cổ viền cánh ngắn, quần lá nhuộm màu chàm bằng vải tự dệt.

Phụ nữ Bố Y mặc áo ngắn, năm thân xẻ nách phải, có cổ và ống tay áo, với chỗ cài cúc được trang trí và viền vải khác màu, hoa văn sặc sỡ. Trang sức của người Bố Y trước đây cũng có chạm bạc, nhưng ít và thường làm bằng vật liệu tự nhiên.

Ẩm thực dân tộc Bố Y

Với nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và trồng trọt, người Bố Y có một ẩm thực đa dạng và phong phú. Đặc sản của họ bao gồm cơm nếp, gà ta, lợn rừng, bò rừng, hải sản và các loại rau củ đặc trưng của vùng núi. Trong đó, gạo được sử dụng chủ yếu làm cơm, còn ngô lại được sử dụng để làm hàng hóa để tăng thu nhập và chăn nuôi gia súc, gia cầm.

Đặc điểm kinh tế dân tộc Bố Y

Người Bố Y có truyền thống làm ruộng nước và có trình độ canh tác nông nghiệp cao. Hiện nay, rừng đã được giao cho các hộ gia đình chăm sóc và bảo vệ nên người Bố Y không còn canh tác theo lối quảng canh như trước nữa mà đã đi vào thâm canh và xen canh. Người Bố Y ở Mường Khương, tỉnh Lào Cai, ngoài trồng lúa, ngô, sắn… còn trồng ớt, đậu tương, chè, thuốc lá, mía. Ớt được coi là loại cây hàng hóa đem lại thu nhập cho người dân và cũng là loại cây gia vị ưa thích của đồng bào.

Chăn nuôi là hoạt động sinh kế bổ trợ cho hoạt động trồng trọt của người Bố Y. Gia cầm, đặc biệt là gà được người Bố Y nuôi nhiều. Gà cũng là một lễ vật cúng không thể thiếu trong các dịp lễ, tết và đáp ứng nhu cầu thực phẩm của gia đình. Chăn nuôi gia cầm của người Bố Y chủ yếu theo hình thức thả rông.

One thought on “Giới thiệu dân tộc Bố Y Việt Nam

  1. Pingback: Danh sách dân tộc Việt Nam - ATI

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *